Friday, June 25, 2010

thân phận

Tôi nằm ngửa chiêm ngưỡng bầu trời
Rồi nằm nghiêng lắng nghe quả đất
Tôi nhắm mắt chờ lãng quên rơi
Rồi úp mặt ăn năn nhân loại

Tôi cào rách vết thương xưa cũ
Vắt phổi đen tìm mật khổ đau
Chắt máu mủ gọi mời dã thú
Giữa đêm mù mở mắt thành sao

Chân bước như tín đồ mù quáng
Tự lừa mình bằng mấy câu kinh
Xé màn đêm tìm nguồn ánh sáng
Giơ bàn tay che kín bình minh

Thân hóa phép cắt tai chó sói
Ếm tiếng quyên, trói vó ngựa hoang
Chân đạp thẳng lên tay chỉ lối
Trên điêu tàn ngửa cổ cười vang

Gót đạp sóng vượt cầu mê muội
Tách bảy màu ra khỏi cầu vồng
Tưởng trần gian là vùng đau khổ
Nhập Niết Bàn, giác ngộ với ai?

Đỗ Quý Dân

Sunday, May 30, 2010

Vietnamese “Onomatopoeia”

Onomatopoeia is that characteristic which is inherent in words that imitate or suggest the source of the sound they describe (those words are themselves known as onomatopoeias). Onomatopoeia exists in all languages. We have such words as buzz, hiss, roar, whoosh, etc, in English, and siffler, cracher, cliquer, etc, in French.

In the Vietnamese language, onomatopoeia is carried to a higher level. Not only the word imitates the sound it describes, the pronunciation of Vietnamese onomatopoeias requires the speaker to “perform” the act the words describe. When a Vietnamese says “phun”, he actually ejects a small stream of air from his mouth. When he says “khạc”, he actually “crache” if he is French, otherwise he clearly seems to clear his throat, and is ready to spit. When the Vietnamese “hút”, his British counterpart sucks. The Vietnamese cannot say “” (as in há miệng) without opening his mouth. Similarly, he cannot say “ngậm” without closing his lips.

Should we conclude then that the Vietnamese language is highly descriptive? And that to speak the language is to perform its meaning? I think not. Rather, it appears that that portion of the Vietnamese language that is not influenced by the Chinese has not evolved much from its primitive form. As to that portion of the language which is borrowed from the Chinese vocabulary, the sounds of those borrowed words, known as chữ Hán Việt, are hardly descriptive of their meanings. They may be when pronounced by Chinese, but not when they have already been transliterated into Vietnamese. Rousseau may be mispronounced by Chinese as “Loo-Soh” but in Vietnamese he is known as “Lư Thoa,” and no French person would be able to recognize the name of that famous Genevois philosopher when announced in such manner by a Vietnamese.

The fact is that the more advanced a language becomes, the further it drifts from its original and primitive state. The Vietnamese used the Chinese language and later the Latin alphabet to enhance their language, without really making any effort to change their non-Chinese related vocabulary, leaving such vocabulary practically in its primitive form. In such form, pronouncing words sometimes requires the speaker to actually perform their meanings.

Whatever the case may be, that part of the Vietnamese language remains interesting and worth exploring.

Wednesday, May 12, 2010

Rạo Rực

Có lẽ trong chúng ta, chẳng mấy ai lại không biêt đến bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?


Lưu Trọng Lư đã có công biến mùa thu thành hồn thơ vượt không gian và thời gian. Từ sau khi ánh trăng mờ đi vì thổn thức bởi ý thu, từ khi con nai ngơ ngác đạp lá vàng, thi nhân Việt Nam đã để lá vàng rơi ngập thi văn đàn, những mong tìm được hình bóng chú nai vàng cùng dư âm của tiếng trăng thu. Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ? Em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương? Hình ảnh của những chiếc lá rơi và của chú nai vàng ngơ ngác đã khiến thi nhân không quên được mùa thu, mặc dù rất nhiều thi sĩ, nhạc sĩ chưa bao giờ được sống ở một nơi có mùa thu thực sự, mà chỉ biết có hai mùa mưa nắng. Mặc dù bộ lông của chú nai không cùng màu vàng của những chiếc lá thu rơi.

Và vì mải tìm chú nai vàng và ngắm lá thu rơi, thi nhân đã quên đi cái hay chính của bài Tiếng Thu. Vâng, bài thơ có ca tụng mùa thu đấy, nhưng không phải chỉ ca tụng xuông mà thôi. Bài Tiếng Thu thực sự là lời tuyên ngôn của thi sĩ giã từ nền thơ cổ để dấn bước vào một hành trình tư tưởng mới. Lời tuyên ngôn đó được tóm tắt bằng hai chữ “rạo rực”.

Bài thơ mang nét cổ kính qua các từ “chinh phu”, “cô phụ”, chứng tỏ thi sĩ rất trân trọng nền thơ cổ. Dư âm của Chinh Phụ Ngâm còn vang lên đâu đó. Nhưng người vợ cô đơn của Tiếng Thu không chỉ nhung nhớ người chồng đi chinh chiến một cách đơn thuần như nàng Tô thị ngày trước. Nàng công nhiên thú nhận mối “rạo rực” trong người khi nhớ tới hình bóng của người đàn ông trong đời nàng. Hai chữ “rạo rực” ám chỉ sự khát khao về xác thịt. Người đàn bà trong Chinh Phụ Ngâm không dám nhắc đến, mà có lẽ cũng không dám nghĩ đến sự rạo rực đó. Cái hay của Lưu Trọng Lư là trình bày cái rạo rực của thời đại mới một cách tế nhị, để cái cảm giác xác thịt kia xen vào giữa những khái niệm cổ xưa về sự tương quan giữa kẻ chinh phu và người cô phụ. Điều người xưa không dám nói, người chinh phu không dám ngờ vợ lại có thể nhắc đến giữa công chúng, đã được người cô phụ nói ra, thẳng thắn và đầy tình cảm. Người đọc thơ dễ ngủ quên trong dư âm của Chinh Phụ Ngâm mà không để ý đến trận bão rạo rực trong lòng của người đàn bà thời đại mới, phức tạp hơn nhưng cũng quyến rũ hơn. Người đàn bà này sẽ không còn ngồi đợi chồng rồi biến thành tượng đá đầu non. Nàng không còn chỉ là biểu tượng của những tiết liệt đoan trinh ngày xưa. Nàng đã thật sự trở thành đàn bà. Có những đòi hỏi của đàn bà. Và dám nói ra những đòi hỏi đó.

Ngoài hình thức mới, Tiếng Thu cũng đề nghị một lối sống mới, một ngôn ngữ mới. Ta vẫn yêu quý cái cổ xưa, nhưng phải sống đời sống ngày nay. Phải để mình rạo rực khi lòng nghe rạo rực. Tiếng Thu là tiếng sét nổ trên thi đàn Việt Nam, giữa một bầu trời quang tạnh. Chỉ tiếc là tiếng sét đó không vang xa đến hậu thế, để cho thi nhân Việt Nam hôm nay chỉ mãi đuổi theo con nai vàng và ngồi chờ lá đổ mùa thu.


Drunken Poet

Thursday, May 6, 2010

Lá Thu Rơi Ngập Đường Đi.

Nếu phải tính số lượng của những chiếc lá rơi trong thơ văn Việt Nam, chắc ta phải kết luận là đường phố Việt Nam bị lá vàng rơi ngập khi mùa thu về. Chẳng cần biết mùa thu như thế nào (người viết được biết là Việt Nam, hoặc ít ra là miền Nam nước Việt, chỉ có hai mùa mưa nắng), ta cũng cứ vẽ ra kỷ niệm "Thu đi cho lá vàng bay". Không biết thi nhân, nhạc sĩ, có bao giờ nhìn thấy lá vàng bay trên đường phố Sàigòn chưa? Chưa à. Không sao. Lá vàng rơi đầy trong thơ nhạc. Lá rơi nhiều quá chiếm hết không gian của bất cứ một hình ảnh nào khác, mới hơn và thực hơn. Cái không gian cần thiết nhất để chứa được những hình ảnh mới và thực đó là khoảng không gian nằm trong đầu của thi nhân, của nhạc sĩ. Khoảng không gian đó gọi là sáng tạo.

Lá thu rơi nhiều quá. Làm rối loạn khoảng không gian kia. Nhiều khi ta gọi rối loạn là xào sáo. Đầu óc thì xào sáo. Thơ nhạc nói gọn đi là sáo.

Có lẽ vì ít nghiên cứu về thực vật học, thi nhân Việt Nam cứ tiếp tục vẽ hoa phượng vào mùa hè, năm này qua năm khác. Đọc thơ, nghe nhạc Việt Nam, mà cứ tưởng phượng nở đỏ cả bầu trời thế giới. Muốn pha chút màu tím ư? Hãy ghé qua những đồi ở thôn quê Việt Nam ngắm hoa sim, hoặc ra ngoại ô nhìn bằng lăng. Chưa thấy sim và bằng lăng bao giờ ư? Cứ viết đại vào thơ nhạc đi. Cả nước ai cũng hiểu. Hoặc chẳng cần phải nhờ đến cây cỏ làm gì cho mệt. Chiều hôm nay đã tím lịm rồi. Tím từ chân trời. Tím đến tận ánh mắt người tình. Nhìn qua lăng kính ngập lá thu, màu gì tô cũng dễ.

Có lẽ thi nhân và nhạc sĩ Việt Nam là những kẻ chung thủy. Anh sẽ yêu em suốt cả đời. Thế nhưng buổi tối anh cần phải đi nhậu riêng với bạn bè. Yêu em nhưng vẫn để em khóc suốt cả hành trình thơ nhạc. Người đọc thơ, nghe nhạc, muốn đong những giọt lệ giai nhân chắc phải đào cả một bể chứa để hứng những suối nước mắt (đau khổ vì) tình ái. Thảo nào TCS chẳng thốt "Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh". Nước mắt càng rơi, lá thu càng rụng.

Yêu giai nhân mà sao lại để nàng khóc nhiều thế?

Yêu người, yêu cả tà áo, nhất là tà áo trắng. Thi nhân năm mươi, sáu mươi tuổi vẫn bị hình ảnh nữ sinh áo trắng cắp cặp đi học ám ảnh. Nhưng thi nhân lại quên mất cái hình ảnh dễ thưong hơn là hình ảnh các nàng áo trắng ngồi xụp xuống bên đường ăn vặt. Ăn vặt nhưng rất thơ mộng. Thực ra là ăn thật chứ không phải ăn vặt. Chén một lúc mười quả hột vịt lộn mà nói là ăn vặt, thì thế nào mới là ăn thật đây? Tiếc rằng thi nhân, nhạc sĩ chỉ tả áo trắng bay, mà quên tả áo trắng vắt lên trong tư thế ngồi xổm rất lãng mạn của thời con gái. Mà thi sĩ lại không dám nhớ đến cái áo dài trắng bị lột ra một cách vội vã của thời các nàng đã trở thành thiếu phụ! Lá thu rơi làm thi sĩ thánh thiện, không thèm để ý đến những chuyện xác thịt tầm thường.

Mười ông thi sĩ, nhạc sĩ đương đại, là hết chín ông thích đi nhậu, uống bia ôm. Sao không bỏ các ả bia ôm vào thơ? Lúc hôn nhau dùng cả lưỡi chứ chẳng chỉ có môi mà thôi. Sao không kể cho nhau nghe cái cảm giác lưỡi đó đê mê như thế nào? Cũng tại lá thu rơi.

Thôi thì phải uống cho say. Có say mới quên được lá thu. Mới nhớ đến chuyện khác được. Hãy thử nghe cái tên say làm thơ:

"Em ơi !
Da thịt em gọi mời
Khuy áo em phập phồng
Sao tay tôi luôn chậm mở?

Khi xác thân tìm về thân xác,
Mồ hôi trộn mồ hôi, chất ướt nhào chất ướt
Sao hơi thở lại không hòa hơi thở?

Khi bờ môi thả xuống bờ môi,
Mắt đam mê rơi vào mắt dại
Sao lưỡi vẫn tê, răng vẫn còn ngần ngại?" (thơ Drunken Poet DQD)

Thằng say này láo lếu. Nhưng nó thật. Thơ nó có đủ cả mồ hôi, chất ướt. Răng và lưỡi cũng hoạt động theo môi. Nhưng nó vẫn bị cái khuôn sáo của thơ văn Việt Nam kềm hãm, chưa lột nổi áo em ra để chiêm ngưỡng. Một ngày nào đó nó sẽ lột hết ra. Lúc đó là lúc bản ngã đã biến thành thơ.

Còn bây giờ, đường nó đi vẫn ngập đầy lá thu, không tiến tới được.

ĐQD

Friday, April 23, 2010

HUNTRESS

Satin and lace
Blurring your face...
O those golden apples
Causing you to lose your race.

Day and night
Your eyes casting light.
Your pose provoking
In black and white.

Chaste and sensuous,
Wanton and ferocious,
Finding and losing
Yourself in lust.

Yesterday’s glow
Fading into tomorrow...
Your ode to life
Ending in an elegy of sorrow.

Drunken Poet

Monday, April 19, 2010

Vẩn Vơ Vi Vút Vòng Vèo

KHÔNG ĐỀ

Đôi tình nhân ngật ngờ
Trong cuộc tình vật vờ
Cuộc đời còn lật lờ
Tháng năm trôi dật dờ
Con diều bay phất phơ

Đường xa sao khúc khuỷu
Lòng ai sao khắc khoải
Bước đi chừng khập khiễng
Tiếc thời từng khật khưỡng
Con ve sầu khát khao.

Đứng trên thì khù khờ
Ở dưới thì ngu ngơ
Ngôn ngữ thì ú ớ
Bó chân ngồi xớ rớ
Nhìn ruồi bay vu vơ.

Nhà cứ bừa lung tung
Làng họ cứ bung xung
Tai nghe tiếng lùng bùng
Miệng cười nói khật khùng
Con trâu cày mung (mông) lung

Kệ ai còn dan díu
Để đời rồi dở dang
Dấm dớ thành gian dối
Diêm dúa che dơ dáy
Con giun sống dông dài.

Dứt.

Đỗ Quý Dân

Tuesday, February 9, 2010

Sounds of the past

Thỉnh thoảng "hoài cổ" một chút...


Âm xưa

Nụ cười em vừa bừng lên đêm qua
Vầng trăng lạnh đã ngập tràn nỗi nhớ
Mai về thăm ký ức phủ sương mờ
Đưa hồn mới tìm âm xưa tình tự

Tiếng thơ lạ bồng bềnh trên hơi thở
Trong mộng du gặp tiền kiếp quay về
Ngôn ngữ hôm nay nghe bỗng ngô nghê
Lời tỉnh lời mê hòa chung không phân biệt

Giữa trưa nắng ai ngồi ôm đàn nguyệt
Nhắn nhủ tri âm sống thực với mình
Đêm về khuya khua trống vỡ âm thanh
Kéo bản ngã ra khỏi vùng tê liệt

Giọng hát em vang như lời tống biệt
Nửa đời sau tình cũ sẽ hồi sinh
Mặt trời nửa đêm rọi tan băng tuyết
Chảy xuống thành gương soi lại đời mình

Tiếng khóc chiều nao âm thầm như dấu hỏi
Sao tranh vui phảng phất nét bi ai?
Đừng đề lệ rơi bên bờ vực tối
Giọt lưu ly xin giữ lại cho đời.

Đỗ Quý Dân

Friday, February 5, 2010

Friday

Thứ Sáu ngày cuối tuần
Ta không nghĩ đến vui
Ta không nhớ đến buồn
Vì cần làm xong việc
Thứ Sáu ngày cuối tuần.

Thứ Sáu ngày cuối tuần
Ta ôn chuyện hôm qua
Ta tính chuyện ngày mai
Ta quên đi hiện tại
Thứ Sáu ngày cuối tuần.

Thứ Sáu ngày cuối tuần
Tình có còn mê say?
Hồn có thôi rã rượi?
Chợt thấy mỏi đôi tay
Thứ Sáu ngày cuối tuần.

Ngày mai ngày thứ Bảy
Ta xếp mọi việc đi
Ta quay về hiện tại
Tìm một chút say mê
Trong ngày nghỉ cuối tuần.

Đỗ Quý Dân

Monday, February 1, 2010

The endless chase

Em có trái tim không ai bắt được
Anh có đam mê không gì thoát được
Ta đuổi bắt nhau cho vũ trụ xoay vần
Và tạo ra cuộc sống.

Em như con hoẵng chạy tung trong hoang dã
Như cánh chim bằng xoải cánh vượt đại dương
Em tấu nhạc lên giữa ánh sáng tưng bừng
Để màn đêm tĩnh mịch chảy tan ra thành nước
Thành tấm gương phản chiếu bóng tâm linh

Anh sẽ giăng đam mê ở cả bốn góc trời
Để chặn đường em bay, để tình yêu lộ diện
Anh vừa vươn tay ra nắm
Em đã thành nước chảy vuột đi
Để lại trên da anh chút si mê hoài vọng
Anh biết
Nếu em đứng im, đam mê anh sẽ tắt
Vũ trụ sẽ chẳng còn
Thời gian hấp hối
Nước lũ Ngân Hà vỡ tràn trên tinh cầu mơ mộng
Đôi ta sẽ chết đuối trong vô nghĩa.

Nên em hãy cứ đi
Nên em đừng ngưng cánh
Nên em đừng chấp nhận
Để anh còn mãi đuổi
Để anh còn mộng mơ
Để anh còn hơi thở.

Anh chỉ muốn chiến tranh
Mà không cần chiến thắng

Và anh chưa muốn tỉnh.

Đỗ Quý Dân

Thursday, January 28, 2010

CHỖ ĐỨNG CỦA TÔI

Tôi với anh
Đừng bắt ta cùng chí hướng
Như thế là mất tự do
Tôi quý nó như hơi thở
Tôi cần sống
Nên tôi với anh
Không thể là đồng chí.

Tôi với em
Đừng nói tự do
Để mua để bán để ra giá để mặc cả
Để hiểu đời qua con số
Tôi không mua em
Em đừng bán tôi
Tự do còn giới hạn
Em còn ngồi bên tôi
Ở một nơi không phải thị trường.

Tôi với ngài
Đừng dạy nhau niềm tin
Chỉ là liều thuốc của gã lang băm
Lừa những kẻ yếu đuối
Ngài và tôi là hai con kiến
Trên quả địa cầu nhỏ như hạt bụi trong vũ trụ
Thượng đế ngu mới quan tâm đến hạt bụi
Hạt bụi ngu mới nghĩ mình đáng để quan tâm
Khi vũ trụ còn bao la đến thế.
Hay người ngu?
Hay ngài ngu?
Hay tôi ngu?
Muốn không ngu thì đừng tin thượng đế.

Tôi biết
Gió mãnh liệt đến đâu cũng chỉ là không khí
Sóng hung dữ đến đâu cũng chỉ là nước
Sống oai phong đến đâu cũng chỉ là hơi thở chưa tắt
Thơ cũng chỉ là tiếng vang
Nhắc cho con người đời chỉ là ảo tưởng.

Đỗ Quý Dân

Friday, January 22, 2010

NẾU

Nếu em đem đời anh ra vẽ kiểu
Em sẽ phải đứng nghiêng
Mới nhìn ra cái thẳng
Trong mô hình xiêu vẹo ngổn ngang

Nếu em tìm ngày xưa trong nuối tiếc
Em sẽ thành huyền thoại
Tương lai sẽ chìm trong cổ tích
Mây ngừng trôi.

Nếu em đặt niềm tin vào anh
Anh sẽ không còn giải thích
Tại sao anh yêu em
Bản tình ca nghe như lời ru ngủ.

Nếu em tin vào thượng đế
Em sẽ lên án loài người
Em là quan tòa
Anh là tội nhân
Hay ngược lại.

Nếu chúng ta quên…

Đỗ Quý Dân