Thursday, January 26, 2012

Invictus - Unconquered

Đây là bài thơ đã giúp Nelson Mandela nuôi vững được tinh thần đấu tranh cho dân tộc. Tôi đã dịch ra để tặng một vài người bạn. Dịch không chỉnh lắm. Người đọc miễn thứ.

Invictus

Out of the night that covers me,
Black as the pit from pole to pole,
I thank whatever gods may be
For my unconquerable soul.

In the fell clutch of circumstance
I have not winced nor cried aloud.
Under the bludgeonings of chance
My head is bloody, but unbowed.

Beyond this place of wrath and tears
Looms but the Horror of the shade,
And yet the menace of the years
Finds and shall find me unafraid.

It matters not how strait the gate,
How charged with punishments the scroll,
I am the master of my fate:
I am the captain of my soul.

William Ernest Henley
(1849-1903)


Bất khả khắc phục

Tôi thoát khỏi màn đêm đang phủ kín
Đen như hố sâu suốt hai cực địa cầu
Đấng thần linh nào đây? Cảm ơn đã
Không để ai khắc phục được hồn tôi.

Khi bị rơi vào vuốt nanh định mệnh
Tôi chẳng nhíu mày cũng chẳng kêu than
Tôi hứng chịu đòn dùi cui vận hạn
Đầu máu tuôn nhưng chẳng chịu quy hàng.

Vượt chốn nơi đây của hờn căm nước mắt
Là đối đầu Kinh Dị của bóng âm
Nhưng nỗi đe dọa bao năm dai dẳng
Sẽ chẳng làm tôi run sợ một lần.

Mặc cho cửa vào thiên đường chật hẹp
Mặc cáo trạng ghi đầy rẫy cực hình
Tôi vẫn là chủ nhân của vận mệnh
Tôi vẫn là thống lãnh của linh hồn.

William Ernest Henley
DQD dịch

Wednesday, November 9, 2011

Hồi Sinh

Tôi chết đi hôm qua
Chưa kịp rửa sạch lỗi lầm nhân loại
Em tiếp cho tôi hơi thở
Và tôi lại hồi sinh
Để tìm lại nơi bắt đầu
Của linh hồn
Của nghị lực
Tôi đã bỏ quên
Khi tự đóng đinh mình lên thánh giá

Tôi hồi sinh vì em vẫn sống
Vì em là một phần của thể xác
Của linh hồn
Tôi
Em bất diệt nên tôi bất tử
Em truyền tôi hơi thở
Lúc tôi hấp hối trên đỉnh hoang mang

Tôi sẽ mọc cánh khi đôi chân tàn phế
Và đầu thai vào kiếp mới
Khi đôi tay bị trói quặt bởi ý tưởng buông xuôi
Tôi có em nên có cả bầu trời
Nên không còn vướng những mơ hồ ảo tưởng

Nhớ thuở cùng Shiva đập tan vũ trụ
Giờ đầu thai vào một kiếp Brahma
Em hòa vào tôi như hòa hợp của âm dương
Chúng ta sẽ cùng tạo ra thái cực
Nên giờ đây hồi sinh
Tôi sẽ bắt đầu một hành trình mới
Lấy tình em làm phương hướng
Làm kim chỉ nam của cuộc sống ngày mai
Em hãy cứ chờ
Vì tôi sẽ đến . . .

Drunken Poet

Monday, November 7, 2011

Hấp Hối

Em viết xong bài hát cuộc đời
Hát cho anh nghe buổi chiều anh hấp hối
Nhưng anh không chết vì vẫn còn lạc lối
Phải chăng anh đã dập tắt mặt trời?

Những dấu chân xưa
Đã không còn trên cồn cát
Như chưa từng có mặt
Nhưng biển cát vẫn mượt mà bên dòng thời gian trầm tĩnh
Liệu anh có chết đi
Như chưa từng hiện hữu
Liệu anh có ngủ yên
Hay chỉ kéo dài cơn hấp hối vào vô tận . . .

Em hát để nhắc cho anh
Những bài thơ anh viết chưa trọn vẹn
Để anh không ngủ quên
Và nằm mơ những giấc mộng mong manh
Những giấc mộng tầm thường
Làm rữa nát cái xác thừa của một thân phận không ý nghĩa
Em biết anh không muốn hồn anh rữa nát
Nên em phải nhắc anh
Và hát bài hát cuộc đời
Buổi chiều nay khi anh đang hấp hối. . .

Drunken Poet

Monday, October 17, 2011

Vô Thức

Đêm
Đen như cõi vô tri
Trắng như ngàn năm chưa đi ngủ
Mắt không còn sáng như đèn pha
Mà sao tai vẫn dập dồn như xe cứu hỏa
Tiếng than mênh mông
Như vùng cao nguyên ở một khung trời cũ như tiền sử
Nhưng của một nỗi đau đang chảy ra dòng sông trước mặt
Vai em nhỏ thó như ký ức chẳng chịu phai mờ
Nỗi nhớ giẫy giụa như con cá trê
Nhớt nhầy trên bàn thớt
Anh với em nhìn tuyết rơi phủ lên miền xúc cảm
Hỏa diệm sơn nổ bùng sau cơn địa chấn
Vừa bị sóng thần nuốt trọn đêm qua
Để bây giờ ta gần gũi …

Ngày
Chậm như những hành trình vạch sẵn
Nhanh như khoảnh khắc thiếu suy tư
Chiếc xe bị vé phạt vì đậu quá giờ
Anh vẫn bị phạt vì đôi chân không dừng lại
Người cách xa khi mặt trời ló dạng
Ánh sáng xâm nhập vào phòng tuyến nội tâm
Nên người cần một khí trời ô nhiễm
Để khỏi bận lòng khi chờ đón ngày mai
Con ong không dám ngủ trong nụ hoa đầy mật
Con giun không chui đầu ra khỏi đất
Em như một liều thuốc
Cho những linh hồn thiếu chất đam mê…

Ngủ
Nhưng không ngủ vì tim còn đập mạnh
Để hòa điệu cùng hơi thở
Chính xác không một lỗi lầm
Cơn mê làm mất bản chất của lặng yên
Như viên nước đá giữa sa mạc làm nhòe đi vẻ đẹp của cát
Chỉ để cứu rỗi một cơn khát tầm thường
Như loài người
Như anh và em
Như số phận những con chim cả đời bay để tìm miền nắng ấm
Như những lời phân ưu
Đăng trên tờ nhật trình
Phân vân nhưng thẳng cánh
Về vùng của những thói quen dùng để trang điểm cuộc đời
Anh đã xé áo trang điểm của em
Để chiêm ngưỡng vẻ đẹp tĩnh lặng
Như hứa hẹn của một cơn giông sắp tới
Trước giờ hẹn cùng giấc ngủ.

Đỗ Quý Dân

Monday, September 5, 2011

Văn Hóa Nhậu, Văn Hóa Giả

“Anh ơi, tối nay rảnh không? Em mời anh đi nhậu.”
“Có chuyện vui hả? Kể anh nghe với.”
“Em vừa bị mất việc anh ạ. Đi nhậu cho đỡ buồn.”

Giữa lúc chén thù chén tạc, anh chàng vừa thất nghiệp tâm sự là đã quá chán công việc. Lương bổng không bao nhiêu mà việc làm ngập đầu. Bỏ việc thì vợ cự là lười biếng, nay bị cho nghỉ việc thì có quyền nghỉ ngơi mà không bị mặc cảm tội lỗi. Đó là lý do để nhậu.

Hai hôm trước một người bạn tôi được một đứa “đệ tử” mời đi nhậu vì mới mua được một chiếc điện thoại di động thật “chiến”. Tôi được rủ đi theo vì lỡ bị mang tiếng là sành rượu! Cả buổi nhậu chẳng ai nhắc nhở gì đến cái điện thoại chiến kia cả. Không dẹp được tính tò mò, tôi yêu cầu chủ nhân cho xem chiếc điện thoại di động mới của chàng ta.

“Em cho con bé bồ nhí của em rồi anh ạ.”

Thật là quái lạ. Lúc đó tôi chịu, không sao hiểu nổi anh chàng mời nhậu. Bảo là muốn khoe đồ chơi mà lại đem đồ chơi đi cho người khác thì không biết là khoe cái gì? Tôi thật sự hoang mang.

Nhưng bây giờ tôi bắt đầu hiểu.

Đây chẳng qua là một vấn đề văn hóa. Cái văn hóa mới của nước Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến.

Cái nền luân lý Khổng Mạnh, các tư tưởng văn hóa hội nhập từ các nước Âu Mỹ hiện giờ đã nhường bước cho một trào lưu văn hóa mới: văn hóa bàn nhậu.

Ngày xưa nếu có người phê bình An Nam ta có cái tật là gì cũng cười, thì hôm nay ta có thể kết luận rằng Việt Nam ta giờ có cái tập quán mới là có chuyện gì cũng nhậu. Ta cứ đi từ Sàigòn ra Hà Nội, từ Huế vào Đà Nẵng, đâu đâu cũng sẽ thấy những quán nhậu, và lúc nào quán nhậu cũng đông kín người. Có những nơi khách có thể uống bia hoặc rượu cùng với các cô hầu bàn, để niềm vui nhậu nhẹt được pha trộn với một chút lả lơi, sàm sỡ cho đủ ý vị của nền văn hóa mới. Kiểu nhậu này không phải chỉ có ở riêng Việt Nam, mà còn rất thịnh hành ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Mã Lai, Thái Lan, v.v. Nhưng có lẽ không đâu có nhiều lý do để nhậu như ở Việt Nam. Kiếm được việc làm là đi nhậu ăn mừng, mất việc cũng đi nhậu vì “thoát nợ”. Mua chiếc điện thoại mới cũng cần nhậu để khoe, chắc khi mất chiếc điện thoại đó cũng sẽ nhậu vì có lý do mua điện thoại mới!

Nhậu nghiễm nhiên đã trở thành một nhu cầu của xã hội Việt Nam hôm nay.

Anh T. , chủ một khu du lịch hoành tráng trên vùng cao nguyên, kể cho tôi nghe là anh phải mướn một phó giám đốc và ba cô phụ tá để đỡ cho anh về việc “tiếp khách” hàng tuần. Khách gồm đủ mọi thành phần: quan chức nhà nước, thương gia hạng xộp, tài tử nghệ sĩ, v.v. Khách nào cũng phải có bàn nhậu. Không đủ sức để đương nổi các buổi tiệc nhậu liên tục, anh cử “phó giám đốc” và ba cô phụ tá đi thay thế. Riết rồi bốn người này trở thành “chuyên viên nhậu” của công ty: chỉ đi nhậu chứ không làm gì khác! Có vẻ nhàn nhưng chẳng nhàn chút nào. Bận liên miên vì phải nhậu liên miên! Đó là chưa kể thận gan chắc rồi cũng sẽ có vấn đề. Chuyện nhỏ. Chuyện phát huy nền văn hóa mới, tức văn hóa nhậu, mới là chuyện chính. Việc của công ty có tiến hành tốt đẹp hay không cũng là trông vào các bữa nhậu đó. Lấy được các giấy phép nhà nước cũng cần phải hiểu văn hóa đó. Ký được hợp đồng với các đối tác kinh doanh cũng phải thương lượng trên diễn đàn văn hóa đó. Không hiểu được văn hóa nhậu là khó nói chuyện được với nhau. Coi thường chuyện nhậu là khinh bỉ văn hóa mới của người Việt Nam hôm nay!

Cái cách nhậu của người Việt hôm nay cũng khác thường. Đối với dân nhậu, thì văn hóa nhậu hôm nay tiến một bước rất xa. Cái tiến bộ là ở chỗ biết uống rượu Tây!

Ngày xưa dân nhậu có mấy chai 33 đã là cao cấp rồi. Thường thì chỉ có ba xi đế. Phải đám trưởng giả mới uống Cognac (Courvoisier, Martell, Hennessey, v.v), mà cũng chỉ uống đến cấp VSOP là cùng. Ngày nay, dân nhậu chỉ thích uống Martell Cordon Bleu, Hennessey hoặc Remy Martin XO, mỗi chai mua cả trăm đô chứ không phải chuyện chơi. Có điều là ở Việt Nam rượu bán ngoài tiệm có đến 90% là rượu giả mạo. Uống vào nhiều khi mồm mép sưng phồng lên, trông như cái phao câu vịt! Còn chóng mặt, nhức đầu, nôn mửa thì khỏi nói. Chuyện quá bình thường. Thế nhưng người ta cứ uống. Và bây giờ thì dân nhậu Việt Nam lại chuyển qua Whiskey (Scotch). McCallan, Chivas, và Johnny Walker là ba loại Scotch thông dụng nhất. Người ta cứ lựa loại đắt tiền mà uống. Chivas và McCallan thì phải từ 18 đến 25 năm, Johnny Walker (còn được dịch là Giô Ni đi bộ) phải ít nhất là Gold Label, hoặc nếu sang hơn là Blue Label thì mới đúng điệu. Rồi cũng toàn uống phải rượu giả, sản xuất tại Trung Quốc. Thế nhưng anh em ta vẫn bỏ tiền ra uống. Vì anh em ta chẳng phải uống để lấy ngon, mà để người khác biết là mình sang!
Có nghĩa là các bác chẳng biết thế nào là rượu ngon hoặc rượu dở. Các bác chỉ thấy rượu đắt tiền là gọi. Để gây ấn tượng với bạn bè, với gái. Các bác pha rượu với nhiều nước soda cho dễ uống, lại vừa uống vừa ăn các món ăn đặc sản nặng mùi mắm muối gia vị, mùi Cognac hoặc Scotch không thể nào lấn át nổi. Thế nhưng các bác vẫn biết được rượu ngon (dù là rượu giả). Thế mới đúng là sành điệu.

Nếu các bạn khó kiếm được một ông Tây uống Cognac hoặc một ông Mỹ uống Scotch lúc ăn bữa trưa hoặc bữa tối thì các bạn tìm ra đối tượng Việt Nam uống kiểu này rất nhiều. Đây là văn hóa mới của Việt Nam, Tây Mỹ khó mà so sánh nổi.

Cũng có nghĩa là văn hóa nhậu cũng giống như các nét văn hóa khác ở Việt Nam hôm nay. Đây là nét đáng yêu của những cái giả tạo mà mình không biết, hoặc biết nhưng vẫn chuộng vì tuy giả tạo nhưng rất ấn tượng! Ở một đất nước mà mọi thứ đều giả thì rượu khó mà thật được. Nhưng nếu không biết giá trị của cái thật, thì cái giả cũng chẳng có gì xấu!

Nói qua chuyện thật giả, ta còn nhớ ngày xưa các bà hay nấu các món giả cày, giả ếch. Ngày nay các cô gái làm việc ở các bar và vũ trường bán những nụ cười, những ngôn ngữ “giả nai”. Rồi sau đó sẽ tặng cho khách chơi những lời yêu thương giả dối.

Đồng hồ giả, quần áo giả, giày dép giả, người Việt hôm nay là những tấm biển quảng cáo di động cho đồ giả. Mắt mũi giả, ngực mông giả, ngay cả chỗ kín của phụ nữ giờ đây cũng có đồ giả. Ở một xã hội phong kiến có những gã đàn ông đi mua trinh để lấy hên nên có nhiều anh cũng mua phải trinh giả!

Đó là về phương diện vật thể. Về tinh thần, người Việt ngày nay cũng bắt đầu “sắm” học thức giả. Bằng cấp chính hiệu khó kiếm nên phải mua bằng cấp giả. Nếu cần bằng cấp thật thì nhiều đấng lãnh tụ ngày nay chắc sẽ tiếp tục bị mất mặt vì xưa kia chỉ nằm trong chiến khu, chẳng biết chữ nghĩa gì cả. Phải kiếm một cái bằng giả như bằng Phó tiến sĩ chẳng hạn. Như thế mới an tâm nắm giữ chức vụ chủ tịch, ủy viên, giám đốc, v.v. Có thế thì kẻ dưới mới phục chứ!

Trong môi trường văn hóa diệu kỳ của nước Việt, những cái giả đó giờ đã thành thật. Đã chấp nhận được cái giả thì không còn cần phải tỉnh táo. Mà nếu không cần tỉnh táo thì nên nhậu. Khi nhậu mọi chuyện đều thật cả. Thật trong tinh thần văn hóa Việt Nam, thật trong tinh thần văn hóa nhậu, thật trong tinh thần văn hóa giả.

Người viết tôi hình như đã bắt đầu thấm nhuần cái tinh thần văn hóa mới này vì dạo gần đây cứ phải đi từ bàn nhậu này đến bàn nhậu khác. Cái đó gọi là dấn thân để “nghiên cứu” vấn đề. Nói cho kêu hơn là hy sinh (giả) cho đại nghĩa (giả).

Sống giữa nền văn hóa mới này, mình biết hỏi ai để tìm ra sự thật đây?

DQD

Saturday, April 30, 2011

Mùng 1 Tháng 5

Mùng 1 tháng 5
Tháng tư thành huyền thoại
Một người ra đi
Một trăm người ở lại

Mùng 1 tháng 5
Tháng tư giờ trở lại
Cuộc đời của một người
Chia thành hai kiếp sống.

Mùng 1 tháng 5
Tháng tư giờ hai nghĩa
Nghĩa của kẻ chiến thắng:
Thống nhất và hòa bình
Nghĩa của kẻ ra đi:
Lưu vong và quốc hận.

Mùng 1 tháng 5
Tháng tư là phân liệt
Ba mươi mấy tháng tư
Chẳng xóa đi cách biệt.

Mùng 1 tháng 5
Tháng tư thành nghi vấn
Câu hỏi cho người đi:
Bao giờ thôi vướng bận ?
Câu hỏi cho người ở:
Bao giờ hết tham ô?
Câu hỏi cho người dân:
Bao giờ hết kiếp khổ?
Câu hỏi cho đất tổ:
Bao giờ? Đến bao giờ?

Wednesday, April 27, 2011

GHẸO NGƯỜI THÍCH THƠ LỤC BÁT

Cho em câu lục xinh xinh
Để anh câu bát chúng mình xứng đôi
Em gieo vần ở bờ môi
Nên lòng anh cứ bồi hồi ngất ngây

Cho em câu bát sáng mai
Để anh câu lục đêm nay vỗ về
Tội anh chẳng biết mô tê
Vì si, thơ để lạc đề triền miên

Cho em câu lục kề bên
Để anh câu bát gối lên tình mềm
Mai rồi lỡ phải xa em
Nhớ em anh cứ anh tìm trong thơ

Cho em câu bát mộng mơ
Để anh câu lục vẩn vơ sớm chiều
Ô hay, có phải tại . . . yêu?
Câu lục câu bát đủ xiêu lòng người !

Đỗ Quý Dân

Saturday, April 23, 2011

Vô Thức

Đêm
Đen như cõi vô tri
Trắng như ngàn năm chưa đi ngủ
Mắt không còn sáng như đèn pha
Mà sao tai vẫn dập dồn như xe cứu hỏa
Tiếng than mênh mông
Như vùng cao nguyên ở một khung trời cũ như tiền sử
Nhưng của một nỗi đau đang chảy ra dòng sông trước mặt
Vai em nhỏ thó như ký ức chẳng chịu phai mờ
Nỗi nhớ giẫy giụa như con cá trê
Nhớt nhầy trên bàn thớt
Anh với em nhìn tuyết rơi phủ lên miền xúc cảm
Hỏa diệm sơn nổ bùng sau cơn địa chấn
Vừa bị sóng thần nuốt trọn đêm qua
Để bây giờ ta gần gũi …

Ngày
Chậm như những hành trình vạch sẵn
Nhanh như khoảnh khắc thiếu suy tư
Chiếc xe bị vé phạt vì đậu quá giờ
Anh vẫn bị phạt vì đôi chân không dừng lại
Người cách xa khi mặt trời ló dạng
Ánh sáng xâm nhập vào phòng tuyến nội tâm
Nên người cần một khí trời ô nhiễm
Để khỏi bận lòng khi chờ đón ngày mai
Con ong không dám ngủ trong nụ hoa đầy mật
Con giun không chui đầu ra khỏi đất
Em như một liều thuốc
Cho những linh hồn thiếu chất đam mê…

Ngủ
Nhưng không ngủ vì tim còn đập mạnh
Để hòa điệu cùng hơi thở
Chính xác không một lỗi lầm
Cơn mê làm mất bản chất của lặng yên
Như viên nước đá giữa sa mạc làm nhòe đi vẻ đẹp của cát
Chỉ để cứu rỗi một cơn khát tầm thường
Như loài người
Như anh và em
Như số phận những con chim cả đời bay để tìm miền nắng ấm
Như những lời phân ưu
Đăng trên tờ nhật trình
Phân vân nhưng thẳng cánh
Vế vùng của những thói quen dùng để trang điểm cuộc đời
Anh đã xé áo trang điểm của em
Để chiêm ngưỡng vẻ đẹp tĩnh lặng
Như hứa hẹn của một cơn giông sắp tới
Trước giờ hẹn cùng giấc ngủ.

Đỗ Quý Dân

Saturday, April 16, 2011

Cheaters, Hunters, and Spies

You and I, players of life
Cheaters of common belief
Dogging our paths, rumors are rife
That we thrive
On mischief.

I mold ugliness
Into holiness
You laugh at pain
And cry in happiness.

I am a hunter on the look
Chasseur aux aguets
You are my willing prey
A queen disguising as rook.

How obvious the unpredictable
How fragile the indestructible
You, Prey and Temptress, seduce me
With defiance of the impossible.

I spy on your secret desires
And find myself bogged in mires
In the labyrinth of contradictions
Where the hunter’s arrow
Finds not your heart, but your shadow.

Drunken Poet

Friday, June 25, 2010

thân phận

Tôi nằm ngửa chiêm ngưỡng bầu trời
Rồi nằm nghiêng lắng nghe quả đất
Tôi nhắm mắt chờ lãng quên rơi
Rồi úp mặt ăn năn nhân loại

Tôi cào rách vết thương xưa cũ
Vắt phổi đen tìm mật khổ đau
Chắt máu mủ gọi mời dã thú
Giữa đêm mù mở mắt thành sao

Chân bước như tín đồ mù quáng
Tự lừa mình bằng mấy câu kinh
Xé màn đêm tìm nguồn ánh sáng
Giơ bàn tay che kín bình minh

Thân hóa phép cắt tai chó sói
Ếm tiếng quyên, trói vó ngựa hoang
Chân đạp thẳng lên tay chỉ lối
Trên điêu tàn ngửa cổ cười vang

Gót đạp sóng vượt cầu mê muội
Tách bảy màu ra khỏi cầu vồng
Tưởng trần gian là vùng đau khổ
Nhập Niết Bàn, giác ngộ với ai?

Đỗ Quý Dân

Sunday, May 30, 2010

Vietnamese “Onomatopoeia”

Onomatopoeia is that characteristic which is inherent in words that imitate or suggest the source of the sound they describe (those words are themselves known as onomatopoeias). Onomatopoeia exists in all languages. We have such words as buzz, hiss, roar, whoosh, etc, in English, and siffler, cracher, cliquer, etc, in French.

In the Vietnamese language, onomatopoeia is carried to a higher level. Not only the word imitates the sound it describes, the pronunciation of Vietnamese onomatopoeias requires the speaker to “perform” the act the words describe. When a Vietnamese says “phun”, he actually ejects a small stream of air from his mouth. When he says “khạc”, he actually “crache” if he is French, otherwise he clearly seems to clear his throat, and is ready to spit. When the Vietnamese “hút”, his British counterpart sucks. The Vietnamese cannot say “” (as in há miệng) without opening his mouth. Similarly, he cannot say “ngậm” without closing his lips.

Should we conclude then that the Vietnamese language is highly descriptive? And that to speak the language is to perform its meaning? I think not. Rather, it appears that that portion of the Vietnamese language that is not influenced by the Chinese has not evolved much from its primitive form. As to that portion of the language which is borrowed from the Chinese vocabulary, the sounds of those borrowed words, known as chữ Hán Việt, are hardly descriptive of their meanings. They may be when pronounced by Chinese, but not when they have already been transliterated into Vietnamese. Rousseau may be mispronounced by Chinese as “Loo-Soh” but in Vietnamese he is known as “Lư Thoa,” and no French person would be able to recognize the name of that famous Genevois philosopher when announced in such manner by a Vietnamese.

The fact is that the more advanced a language becomes, the further it drifts from its original and primitive state. The Vietnamese used the Chinese language and later the Latin alphabet to enhance their language, without really making any effort to change their non-Chinese related vocabulary, leaving such vocabulary practically in its primitive form. In such form, pronouncing words sometimes requires the speaker to actually perform their meanings.

Whatever the case may be, that part of the Vietnamese language remains interesting and worth exploring.

Wednesday, May 12, 2010

Rạo Rực

Có lẽ trong chúng ta, chẳng mấy ai lại không biêt đến bài Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư:

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức ?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?


Lưu Trọng Lư đã có công biến mùa thu thành hồn thơ vượt không gian và thời gian. Từ sau khi ánh trăng mờ đi vì thổn thức bởi ý thu, từ khi con nai ngơ ngác đạp lá vàng, thi nhân Việt Nam đã để lá vàng rơi ngập thi văn đàn, những mong tìm được hình bóng chú nai vàng cùng dư âm của tiếng trăng thu. Em có nghe mùa thu mưa giăng lá đổ? Em có nghe nai vàng hát khúc yêu đương? Hình ảnh của những chiếc lá rơi và của chú nai vàng ngơ ngác đã khiến thi nhân không quên được mùa thu, mặc dù rất nhiều thi sĩ, nhạc sĩ chưa bao giờ được sống ở một nơi có mùa thu thực sự, mà chỉ biết có hai mùa mưa nắng. Mặc dù bộ lông của chú nai không cùng màu vàng của những chiếc lá thu rơi.

Và vì mải tìm chú nai vàng và ngắm lá thu rơi, thi nhân đã quên đi cái hay chính của bài Tiếng Thu. Vâng, bài thơ có ca tụng mùa thu đấy, nhưng không phải chỉ ca tụng xuông mà thôi. Bài Tiếng Thu thực sự là lời tuyên ngôn của thi sĩ giã từ nền thơ cổ để dấn bước vào một hành trình tư tưởng mới. Lời tuyên ngôn đó được tóm tắt bằng hai chữ “rạo rực”.

Bài thơ mang nét cổ kính qua các từ “chinh phu”, “cô phụ”, chứng tỏ thi sĩ rất trân trọng nền thơ cổ. Dư âm của Chinh Phụ Ngâm còn vang lên đâu đó. Nhưng người vợ cô đơn của Tiếng Thu không chỉ nhung nhớ người chồng đi chinh chiến một cách đơn thuần như nàng Tô thị ngày trước. Nàng công nhiên thú nhận mối “rạo rực” trong người khi nhớ tới hình bóng của người đàn ông trong đời nàng. Hai chữ “rạo rực” ám chỉ sự khát khao về xác thịt. Người đàn bà trong Chinh Phụ Ngâm không dám nhắc đến, mà có lẽ cũng không dám nghĩ đến sự rạo rực đó. Cái hay của Lưu Trọng Lư là trình bày cái rạo rực của thời đại mới một cách tế nhị, để cái cảm giác xác thịt kia xen vào giữa những khái niệm cổ xưa về sự tương quan giữa kẻ chinh phu và người cô phụ. Điều người xưa không dám nói, người chinh phu không dám ngờ vợ lại có thể nhắc đến giữa công chúng, đã được người cô phụ nói ra, thẳng thắn và đầy tình cảm. Người đọc thơ dễ ngủ quên trong dư âm của Chinh Phụ Ngâm mà không để ý đến trận bão rạo rực trong lòng của người đàn bà thời đại mới, phức tạp hơn nhưng cũng quyến rũ hơn. Người đàn bà này sẽ không còn ngồi đợi chồng rồi biến thành tượng đá đầu non. Nàng không còn chỉ là biểu tượng của những tiết liệt đoan trinh ngày xưa. Nàng đã thật sự trở thành đàn bà. Có những đòi hỏi của đàn bà. Và dám nói ra những đòi hỏi đó.

Ngoài hình thức mới, Tiếng Thu cũng đề nghị một lối sống mới, một ngôn ngữ mới. Ta vẫn yêu quý cái cổ xưa, nhưng phải sống đời sống ngày nay. Phải để mình rạo rực khi lòng nghe rạo rực. Tiếng Thu là tiếng sét nổ trên thi đàn Việt Nam, giữa một bầu trời quang tạnh. Chỉ tiếc là tiếng sét đó không vang xa đến hậu thế, để cho thi nhân Việt Nam hôm nay chỉ mãi đuổi theo con nai vàng và ngồi chờ lá đổ mùa thu.


Drunken Poet

Thursday, May 6, 2010

Lá Thu Rơi Ngập Đường Đi.

Nếu phải tính số lượng của những chiếc lá rơi trong thơ văn Việt Nam, chắc ta phải kết luận là đường phố Việt Nam bị lá vàng rơi ngập khi mùa thu về. Chẳng cần biết mùa thu như thế nào (người viết được biết là Việt Nam, hoặc ít ra là miền Nam nước Việt, chỉ có hai mùa mưa nắng), ta cũng cứ vẽ ra kỷ niệm "Thu đi cho lá vàng bay". Không biết thi nhân, nhạc sĩ, có bao giờ nhìn thấy lá vàng bay trên đường phố Sàigòn chưa? Chưa à. Không sao. Lá vàng rơi đầy trong thơ nhạc. Lá rơi nhiều quá chiếm hết không gian của bất cứ một hình ảnh nào khác, mới hơn và thực hơn. Cái không gian cần thiết nhất để chứa được những hình ảnh mới và thực đó là khoảng không gian nằm trong đầu của thi nhân, của nhạc sĩ. Khoảng không gian đó gọi là sáng tạo.

Lá thu rơi nhiều quá. Làm rối loạn khoảng không gian kia. Nhiều khi ta gọi rối loạn là xào sáo. Đầu óc thì xào sáo. Thơ nhạc nói gọn đi là sáo.

Có lẽ vì ít nghiên cứu về thực vật học, thi nhân Việt Nam cứ tiếp tục vẽ hoa phượng vào mùa hè, năm này qua năm khác. Đọc thơ, nghe nhạc Việt Nam, mà cứ tưởng phượng nở đỏ cả bầu trời thế giới. Muốn pha chút màu tím ư? Hãy ghé qua những đồi ở thôn quê Việt Nam ngắm hoa sim, hoặc ra ngoại ô nhìn bằng lăng. Chưa thấy sim và bằng lăng bao giờ ư? Cứ viết đại vào thơ nhạc đi. Cả nước ai cũng hiểu. Hoặc chẳng cần phải nhờ đến cây cỏ làm gì cho mệt. Chiều hôm nay đã tím lịm rồi. Tím từ chân trời. Tím đến tận ánh mắt người tình. Nhìn qua lăng kính ngập lá thu, màu gì tô cũng dễ.

Có lẽ thi nhân và nhạc sĩ Việt Nam là những kẻ chung thủy. Anh sẽ yêu em suốt cả đời. Thế nhưng buổi tối anh cần phải đi nhậu riêng với bạn bè. Yêu em nhưng vẫn để em khóc suốt cả hành trình thơ nhạc. Người đọc thơ, nghe nhạc, muốn đong những giọt lệ giai nhân chắc phải đào cả một bể chứa để hứng những suối nước mắt (đau khổ vì) tình ái. Thảo nào TCS chẳng thốt "Ta nghe nghìn giọt lệ, rớt xuống thành hồ nước long lanh". Nước mắt càng rơi, lá thu càng rụng.

Yêu giai nhân mà sao lại để nàng khóc nhiều thế?

Yêu người, yêu cả tà áo, nhất là tà áo trắng. Thi nhân năm mươi, sáu mươi tuổi vẫn bị hình ảnh nữ sinh áo trắng cắp cặp đi học ám ảnh. Nhưng thi nhân lại quên mất cái hình ảnh dễ thưong hơn là hình ảnh các nàng áo trắng ngồi xụp xuống bên đường ăn vặt. Ăn vặt nhưng rất thơ mộng. Thực ra là ăn thật chứ không phải ăn vặt. Chén một lúc mười quả hột vịt lộn mà nói là ăn vặt, thì thế nào mới là ăn thật đây? Tiếc rằng thi nhân, nhạc sĩ chỉ tả áo trắng bay, mà quên tả áo trắng vắt lên trong tư thế ngồi xổm rất lãng mạn của thời con gái. Mà thi sĩ lại không dám nhớ đến cái áo dài trắng bị lột ra một cách vội vã của thời các nàng đã trở thành thiếu phụ! Lá thu rơi làm thi sĩ thánh thiện, không thèm để ý đến những chuyện xác thịt tầm thường.

Mười ông thi sĩ, nhạc sĩ đương đại, là hết chín ông thích đi nhậu, uống bia ôm. Sao không bỏ các ả bia ôm vào thơ? Lúc hôn nhau dùng cả lưỡi chứ chẳng chỉ có môi mà thôi. Sao không kể cho nhau nghe cái cảm giác lưỡi đó đê mê như thế nào? Cũng tại lá thu rơi.

Thôi thì phải uống cho say. Có say mới quên được lá thu. Mới nhớ đến chuyện khác được. Hãy thử nghe cái tên say làm thơ:

"Em ơi !
Da thịt em gọi mời
Khuy áo em phập phồng
Sao tay tôi luôn chậm mở?

Khi xác thân tìm về thân xác,
Mồ hôi trộn mồ hôi, chất ướt nhào chất ướt
Sao hơi thở lại không hòa hơi thở?

Khi bờ môi thả xuống bờ môi,
Mắt đam mê rơi vào mắt dại
Sao lưỡi vẫn tê, răng vẫn còn ngần ngại?" (thơ Drunken Poet DQD)

Thằng say này láo lếu. Nhưng nó thật. Thơ nó có đủ cả mồ hôi, chất ướt. Răng và lưỡi cũng hoạt động theo môi. Nhưng nó vẫn bị cái khuôn sáo của thơ văn Việt Nam kềm hãm, chưa lột nổi áo em ra để chiêm ngưỡng. Một ngày nào đó nó sẽ lột hết ra. Lúc đó là lúc bản ngã đã biến thành thơ.

Còn bây giờ, đường nó đi vẫn ngập đầy lá thu, không tiến tới được.

ĐQD

Friday, April 23, 2010

HUNTRESS

Satin and lace
Blurring your face...
O those golden apples
Causing you to lose your race.

Day and night
Your eyes casting light.
Your pose provoking
In black and white.

Chaste and sensuous,
Wanton and ferocious,
Finding and losing
Yourself in lust.

Yesterday’s glow
Fading into tomorrow...
Your ode to life
Ending in an elegy of sorrow.

Drunken Poet

Monday, April 19, 2010

Vẩn Vơ Vi Vút Vòng Vèo

KHÔNG ĐỀ

Đôi tình nhân ngật ngờ
Trong cuộc tình vật vờ
Cuộc đời còn lật lờ
Tháng năm trôi dật dờ
Con diều bay phất phơ

Đường xa sao khúc khuỷu
Lòng ai sao khắc khoải
Bước đi chừng khập khiễng
Tiếc thời từng khật khưỡng
Con ve sầu khát khao.

Đứng trên thì khù khờ
Ở dưới thì ngu ngơ
Ngôn ngữ thì ú ớ
Bó chân ngồi xớ rớ
Nhìn ruồi bay vu vơ.

Nhà cứ bừa lung tung
Làng họ cứ bung xung
Tai nghe tiếng lùng bùng
Miệng cười nói khật khùng
Con trâu cày mung (mông) lung

Kệ ai còn dan díu
Để đời rồi dở dang
Dấm dớ thành gian dối
Diêm dúa che dơ dáy
Con giun sống dông dài.

Dứt.

Đỗ Quý Dân

Tuesday, February 9, 2010

Sounds of the past

Thỉnh thoảng "hoài cổ" một chút...


Âm xưa

Nụ cười em vừa bừng lên đêm qua
Vầng trăng lạnh đã ngập tràn nỗi nhớ
Mai về thăm ký ức phủ sương mờ
Đưa hồn mới tìm âm xưa tình tự

Tiếng thơ lạ bồng bềnh trên hơi thở
Trong mộng du gặp tiền kiếp quay về
Ngôn ngữ hôm nay nghe bỗng ngô nghê
Lời tỉnh lời mê hòa chung không phân biệt

Giữa trưa nắng ai ngồi ôm đàn nguyệt
Nhắn nhủ tri âm sống thực với mình
Đêm về khuya khua trống vỡ âm thanh
Kéo bản ngã ra khỏi vùng tê liệt

Giọng hát em vang như lời tống biệt
Nửa đời sau tình cũ sẽ hồi sinh
Mặt trời nửa đêm rọi tan băng tuyết
Chảy xuống thành gương soi lại đời mình

Tiếng khóc chiều nao âm thầm như dấu hỏi
Sao tranh vui phảng phất nét bi ai?
Đừng đề lệ rơi bên bờ vực tối
Giọt lưu ly xin giữ lại cho đời.

Đỗ Quý Dân

Friday, February 5, 2010

Friday

Thứ Sáu ngày cuối tuần
Ta không nghĩ đến vui
Ta không nhớ đến buồn
Vì cần làm xong việc
Thứ Sáu ngày cuối tuần.

Thứ Sáu ngày cuối tuần
Ta ôn chuyện hôm qua
Ta tính chuyện ngày mai
Ta quên đi hiện tại
Thứ Sáu ngày cuối tuần.

Thứ Sáu ngày cuối tuần
Tình có còn mê say?
Hồn có thôi rã rượi?
Chợt thấy mỏi đôi tay
Thứ Sáu ngày cuối tuần.

Ngày mai ngày thứ Bảy
Ta xếp mọi việc đi
Ta quay về hiện tại
Tìm một chút say mê
Trong ngày nghỉ cuối tuần.

Đỗ Quý Dân

Monday, February 1, 2010

The endless chase

Em có trái tim không ai bắt được
Anh có đam mê không gì thoát được
Ta đuổi bắt nhau cho vũ trụ xoay vần
Và tạo ra cuộc sống.

Em như con hoẵng chạy tung trong hoang dã
Như cánh chim bằng xoải cánh vượt đại dương
Em tấu nhạc lên giữa ánh sáng tưng bừng
Để màn đêm tĩnh mịch chảy tan ra thành nước
Thành tấm gương phản chiếu bóng tâm linh

Anh sẽ giăng đam mê ở cả bốn góc trời
Để chặn đường em bay, để tình yêu lộ diện
Anh vừa vươn tay ra nắm
Em đã thành nước chảy vuột đi
Để lại trên da anh chút si mê hoài vọng
Anh biết
Nếu em đứng im, đam mê anh sẽ tắt
Vũ trụ sẽ chẳng còn
Thời gian hấp hối
Nước lũ Ngân Hà vỡ tràn trên tinh cầu mơ mộng
Đôi ta sẽ chết đuối trong vô nghĩa.

Nên em hãy cứ đi
Nên em đừng ngưng cánh
Nên em đừng chấp nhận
Để anh còn mãi đuổi
Để anh còn mộng mơ
Để anh còn hơi thở.

Anh chỉ muốn chiến tranh
Mà không cần chiến thắng

Và anh chưa muốn tỉnh.

Đỗ Quý Dân

Thursday, January 28, 2010

CHỖ ĐỨNG CỦA TÔI

Tôi với anh
Đừng bắt ta cùng chí hướng
Như thế là mất tự do
Tôi quý nó như hơi thở
Tôi cần sống
Nên tôi với anh
Không thể là đồng chí.

Tôi với em
Đừng nói tự do
Để mua để bán để ra giá để mặc cả
Để hiểu đời qua con số
Tôi không mua em
Em đừng bán tôi
Tự do còn giới hạn
Em còn ngồi bên tôi
Ở một nơi không phải thị trường.

Tôi với ngài
Đừng dạy nhau niềm tin
Chỉ là liều thuốc của gã lang băm
Lừa những kẻ yếu đuối
Ngài và tôi là hai con kiến
Trên quả địa cầu nhỏ như hạt bụi trong vũ trụ
Thượng đế ngu mới quan tâm đến hạt bụi
Hạt bụi ngu mới nghĩ mình đáng để quan tâm
Khi vũ trụ còn bao la đến thế.
Hay người ngu?
Hay ngài ngu?
Hay tôi ngu?
Muốn không ngu thì đừng tin thượng đế.

Tôi biết
Gió mãnh liệt đến đâu cũng chỉ là không khí
Sóng hung dữ đến đâu cũng chỉ là nước
Sống oai phong đến đâu cũng chỉ là hơi thở chưa tắt
Thơ cũng chỉ là tiếng vang
Nhắc cho con người đời chỉ là ảo tưởng.

Đỗ Quý Dân

Friday, January 22, 2010

NẾU

Nếu em đem đời anh ra vẽ kiểu
Em sẽ phải đứng nghiêng
Mới nhìn ra cái thẳng
Trong mô hình xiêu vẹo ngổn ngang

Nếu em tìm ngày xưa trong nuối tiếc
Em sẽ thành huyền thoại
Tương lai sẽ chìm trong cổ tích
Mây ngừng trôi.

Nếu em đặt niềm tin vào anh
Anh sẽ không còn giải thích
Tại sao anh yêu em
Bản tình ca nghe như lời ru ngủ.

Nếu em tin vào thượng đế
Em sẽ lên án loài người
Em là quan tòa
Anh là tội nhân
Hay ngược lại.

Nếu chúng ta quên…

Đỗ Quý Dân