Saturday, June 7, 2008

Đường Khuynh Diệp Phần III


"Tôi làm nghề cạp đất!” Anh bạn học chung trung học với tôi ngày xưa tuyên bố một câu bình dị. Tôi chăm chú nhìn mắt anh thắc mắc. Anh giải thích chậm rãi về công việc lấy đất nơi cao đổ xuống vùng bùn lầy nước đọng—một phương cách bán đất hai lần.

Đất, nói chung, không còn chỉ là chuyện nặng hồn sỏi đá. Mà là câu chuyện của một cơn sốt thời đại. Điển hình là đất ở miền Nam.

Sau bao nhiêu ngày vất vả với khí hậu hai miền Trung Bắc, tôi cảm thấy rất nhẹ nhõm khi đón nhận bầu không khí rất mát và dễ chịu của sân bay Tân Sơn Nhất. Nhưng cái dễ chịu đó dần dần bị mất đi trong khung cảnh chen lấn của những dòng người và xe sôi sục trên những con đường từ sân bay về trung tâm thành phố.

Tôi vào Sài Gòn để tư vấn cho một công ty Mỹ về việc lập hợp đồng với một số công ty nước ngoài hiện đang làm việc tại Việt Nam. Thế là kế hoạch đi tìm khuynh diệp của tôi bị đi lệch đi một chút. Vì ỷ y, phái đoàn đi cùng với tôi đã không lo đặt phòng trước, nên vừa đặt chân xuống phi trường là đã phải đương đầu với việc đi tìm khách sạn có đủ 5 phòng ngủ. Chúng tôi bắt đầu với những khách sạn 4 sao trên đường Nguyễn Huệ, từ Rex đến Majestic. Họ chỉ có 1 hoặc 2 phòng trống chứ không đủ 5 phòng. Chúng tôi liền quay qua khách sạn 3 sao như Bông Sen trên đường Đồng Khởi nhưng cũng vô dụng. Tất cả đều bị “sold out”. Xe phái đoàn cứ loanh quanh những con phố, hết khách sạn này đến khách sạn khác, và sau 7 nơi dừng chân, chúng tôi may mắn tìm đến một khách sạn nhỏ trên đường Thủ Khoa Huân sau chợ Bến Thành. Giá phòng là $63 Mỹ kim cho một căn phòng hẹp, không có gì sang trọng, mà cách đây hơn một năm tôi chỉ phải trả khoảng $25 Mỹ kim. Khi chúng tôi trả phòng, một người trong nhóm chúng tôi nói với cô tiếp tân là anh ta cần quay lại vào đầu tháng 3, và được cô tiếp tân cho biết là giá phòng sẽ tăng lên $70 đô một người. Sự lên giá xảy ra ngay trước mắt chỉ trong vòng có mấy ngày. Hỏi ra mới biết cái xứ của nước dừa rau má này đang lên cơn sốt đất đai và giá cả!

Dù có mua bán hay không, chuyện giá cả đất đai lên cơn sốt nghe ra đến phải rùng mình. Cả nước Việt đang oằn oại trong tình trạng này. Riêng ở Sài Gòn, câu tục ngữ “bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu” đã trở thành hiện thực. Giá của cả đất lẫn vàng thi nhau vượt kỷ lục và qua một thời gian, chuyện định giá đất theo giá vàng (một phương cách quen thuộc mà xưa nay người Việt vẫn thường dùng) đã trở thành vô nghĩa. Đối với chuyện mua đi bán lại đất hoặc nhà cửa, nếu tính theo đồng đô la thì người ta có lời, lời nhiều lắm, nhưng nếu tính theo vàng thì người bán sẽ bị lỗ. Lỗ nặng.

Trong những câu chuyện họp mặt, chủ đề đất đai thường hay được đề cập đến. Đất đai giờ đây là chuyện gây lo âu và đồng thời cũng gây hào hứng vì đã làm giàu cho nhiều người. Tôi phải vuốt trán khi nghe một cuộc mua bán vừa xảy ra tại Quận Nhất với giá bán 315 triệu VND (20.000 ngàn Mỹ kim) một mét vuông! Ông thân chủ người Mỹ hỏi tôi: “Như vậy là đất ở trung tâm thành phố này còn đắt hơn cả đất của Tokyo ư?” Tuy tôi không giám khẳng định như thế nhưng cứ theo cái đà này, cái gì cũng có thể xảy ra. Anh bạn chuyên môn trong nghề đất cho tôi biết là đất trên đồi còn được giá hơn vì đất trên cao có một giá trị mới khác hơn xưa rất nhiều. Tôi hỏi thêm thì anh cho biết là ngoài nghề mua bán đất, anh còn có nghề “cạp đất”.

Anh bảo tôi rằng ngày xưa anh học phổ thông bị điểm yếu, bà anh thường chê rằng “sau này mày chỉ đi cạp đất mà sống.” Anh hiện đã làm theo lời bà. Anh mua đất trên đồi rồi bốc đất lên để bán cho những công trình xây dựng vùng bùn lầy hoặc các khu vực ven bờ sông cần làm thành ngăn ngừa đất lở. Sau khi sang bằng mặt đất và gỡ được một nửa số vốn, anh lại bán miếng đất đó đi. Kết cục anh lấy lại tổng số vốn cộng thêm một món tiền lời, coi như là mua một lời hai. Dĩ nhiên tất cả không đơn giản như vậy, cạp đất cũng đòi hỏi phải thông thạo nghề và nắm vững thông tin chính xác, chẳng hạn như phải tìm hiểu kế hoạch đầu tư của các thương gia nước ngoài và dự án khai thác giải tỏa của chính quyền địa phương như thế nào, từ đó người buôn đất mới biết nên đầu tư ở đâu thì mới nắm được phần thắng trong tay.


Cơn nóng sốt đất đai này có lẽ cũng ảnh hưởng ít nhiều đến sự sôi sục kinh tế tại Việt Nam. Chuyện đầu tư của các nước ngoài vào miền Nam thật sự là một hiện tượng đáng kể. Mới từ đầu năm đến giờ mà Việt Nam đã được hứa con số đầu tư trên 15 tỷ Mỹ kim từ các nước ngoài, đứng đầu là Canada và sau đó là Singapore. Có lẽ vì cơ hội làm ăn được gia tăng quá nhanh, dân chúng đổ dồn về các thành phố nên dân số tại Sài Gòn chắc hẳn đã tăng gấp đôi so với một năm trước đây. Đi đâu và bất cứ lúc nào cũng bị kẹt xe, không phải chỉ trong giờ cao điểm. Ng
ười và người ngập đầy phố chợ. Ai ai cũng dồn về Sài Gòn hoặc về các vùng có nhiều nhà máy lớn.

Nói đến các nhà máy lớn là tôi cảm thấy có gì đó sờ s
. Trên đường từ thành phố đi ra các tỉnh như Bình Dương, Long An, v.v., tôi đã chứng kiến các hãng xưởng mới mọc lên thật quy mô và rầm rộ. Điểm đặc biệt là đa số các xưởng này không mang những cái tên được đặt bằng tiếng Việt.

Điều này làm tôi liên tưởng đến các khu vực tô giới quốc tế ở thành phố Thượng Hải thuở xưa lúc triều đình Mãn Thanh phải nhượng đất lại cho các cường quốc Tây phương và Nhật Bản. Hình như hiện tượng đó đang xảy ra trên miền Nam Việt Nam. Mỗi một khu vực cận Sài Gòn là nơi chiếm đóng của một số công ty lớn thuộc về một nước ngoài. Đi về phía Bình Dương, bạn chỉ thấy toàn là những công ty Đài Loan, cây số này nối cây số khác. Qua một khu vực khác thì thấy toàn những công ty của Hàn Quốc. Rôì đến những khu vực của Trung Quốc. Và những hãng xưởng nước ngoài cứ thế mà nối tiếp nhau. Trên đường đi Long An, nếu đi đúng vào giờ “tan xưởng” của các công ty sản xuất giày dép (trong đó có cả công ty Nike), người ta sẽ không khỏi ngạc nhiên khi thấy hàng ngàn công nhân tràn ra như biển người làm kẹt cứng đường. Đúng ra điều này phải làm cho tôi phấn khởi, vì nếu có nhiều công ty đầu tư, thì người dân sẽ có nhiều cơ hội được công ăn việc làm, nhưng sao tôi cứ cảm tưởng như có cái gì không ổn.

Tôi được dịp theo thân chủ tôi vào thăm các hãng xưởng sản xuất ny lông. Khi nhìn thấy cảnh tượng và điều kiện làm việc của các công nhân, phản ứng đầu tiên của tôi là tìm máy chụp hình.

“Không! Xin chị đừng chụp.”

Người hướng dẫn viên chặn tay tôi lại, không cho tôi chụp hình. Thật cả là một tiếc nuối, vì tôi muốn bạn đọc nhìn thấy tận mắt những guồng máy bóc lột công sức lao động của người dân ở đây quy mô đến cỡ nào. Mỗi tòa nhà tôi bước vào là mỗi sự ngạc nhiên, trước tiên là hơi nóng từ các máy móc ùa ập vào người tôi như muốn hâm chín da thịt, kế tiếp là tiếng sầm sập của máy nghe ù cả đôi tai. Tôi đưa tay bịt lấy lỗ tai và bàng hoàng nhìn xung quanh để nhận xét tình hình. Ái chà, nó là cả một câu chuyện. Từ đầu bên này của tòa nhà, tôi không nhìn được đến đầu bên kia, nó là những tòa nhà khổng lồ sâu thăm thẳm. Những cuộn ny-lông to lớn sừng sộ từ trên cao tuôn chảy xuống, những máy kéo nhựa nghe như rên rỉ thay nhau hòa âm với những máy đập sình sịch chung quanh. Trong khung cảnh uy hiếp này là những công nhân nam nữ ốm tong teo, đứng thành hàng luôn tay làm những động tác giống như là đuổi theo các máy móc kia. Trong nhóm người này tôi nhận ra có những đôi mắt còn quá trẻ, quá non nớt. Bên cạnh các đôi mắt đó tôi thấy xuất hiện những nhãn hiệu quen thuộc như Albertson's, Gamestop, Pizza Hut, 99 Cents, KFC, Safeway, v.v.

Hết khu vực này đến khu vực khác, tôi không thể ước lượng được có bao nhiêu những con người lam lũ kia đang làm việc trong hoàn cảnh đó. Họ làm việc trong cơn nóng ác nghiệt, trong sự ồn ào đe dọa của máy móc, không mũ bảo hiểm, không găng tay, không có gì để bảo vệ lỗ tai. Tôi không thể tưởng tượng được họ có thể làm việc như thế ngày này qua ngày khác. Thấy khó chịu, tôi muốn hỏi người quản lý công ty, nhưng không sao cất tiếng được vì tiếng máy quá ồn. Tôi chỉ có thể lên tiếng được mỗi khi đi ra hành lang để băng qua một khu xưởng khác. Tôi hỏi tại sao xưởng không có những trang bị an toàn cho công nhân. Người quản lý Đài Loan trả lời:

“Lúc ban đầu chúng tôi cũng có cho họ mũ và găng tay, nhưng những người này ngoan cố lắm, họ không chịu sử dụng, nên chúng tôi dẹp đi, không dùng đến nữa.”

Tôi không thể tin vào những lời nói kia vì tôi đã biết khá nhiều về hoàn cảnh làm việc của các công nhân Việt Nam tại Đài Loan. Tôi đã nhìn thấy hình ảnh của những người bị cụt tay, cụt chân hoặc nằm chết trên giường bệnh tại nhà thương. Rồi đến hình ảnh những người cha, người mẹ với những khuôn mặt nhăn nheo thảm hại qua xứ người để nhận xác con về. Những người con này chết vì tai nạn lao động, và vì chết trước cha mẹ nên quan tài quấn khăn tang như nhắc nhở rằng họ đã không sống đủ để báo hiếu cho cha mẹ--để cho cha mẹ đã già còn phải ôm lấy đống nợ khổng lồ vì trước đó đã phải bôn ba vay mượn để có thể gửi con đi ra nước ngoài làm công!

Chuyện ở Đài Loan có lẽ cũng như chuyện của bao nhiêu người Việt đi làm mướn ở các nước khác như Mã Lai, Nam Dương, Cao Ly, Trung Quốc, Congo, hay Dubai. Gần một triệu con người bỏ sông Hương, sông Hồng và sông Cửu Long để đến đất người kiếm ăn, không hề biết rằng cứ một người thành công là có mười người phải chịu cảnh đọa đầy. Phụ nữ bị hãm hiếp là chuyện thường không mấy đáng sợ, nhưng làm sao bạn đọc có thể hình dung được có những phụ nữ bi giam cầm trong phòng tối không được mặc quần áo, hết ngày này qua ngày khác?

“Nếu lúc cần, chúng vào phòng hành xác, chúng dùng cây gậy hoặc nắm đấm để làm trò chơi với cơ thể tôi.” Một nạn nhân với khuôn mặt đờ đẫn thuật lại. “Bao nhiêu ngày không có quần áo, tôi phải ngồi nép vào góc tường co đầu gối lên để có thể che chở cho thân mình.” Rồi nước mắt chị từ từ tuôn ra: “Tôi lúc đó cảm thấy mình như một con thú vật. Không còn là người nữa chị à.” Liên tưởng tới những câu chuyện tôi gom góp được từ các nạn nhân lao động ở nước ngoài, tôi cố tự nhủ rằng có lẽ môi trường làm việc ở Việt Nam không đến nỗi tệ như thế? Trong trường hợp bất đắc dĩ thì những nhân công làm việc tại quê nhà còn có thể nghỉ việc ở các công xưởng này để đi bán vé số hoặc đạp xích lô.

Trong hai cái xấu, mình phải chọn con đường có lối thoát. Có lẽ họ sẽ không bị hãm hiếp, không bị chủ đánh cho mù mắt, không bị bỏ đói, không bị bắt buộc làm việc trên 14 tiếng một ngày, và quan trọng hơn hết là không bị tước đoạt quyền làm người.

Nếu lỡ họ có bị cụt tay, cụt chân, điếc tai hay mất mạng trong công việc thì cũng không sao, vì dẫu gì đi chăng nữa họ cũng còn giữ lại được cái vinh dự cá nhân, vinh dự làm người.

Tôi nhiều lần cố nhủ lòng mình như thế.

Trở lại với cuộc tham quan các công ty đầu tư nước ngoài tại miền Nam, tôi tiếp tục cùng thân chủ tôi khảo sát các công ty. Đến ngày thứ tư, tôi không khỏi ngạc nhiên khi phải đối diện một công ty đồ sộ gấp mấy lần các công ty tôi đã khảo sát trong ba ngày trước. Xưởng máy vĩ đại này do người Trung Quốc làm chủ và tôi được thân chủ tôi cho biết rằng nơi đây sản xuất đa số các bao hàng cho Wal-Mart và Target. Ngoài sự kinh ngạc về tầm vóc quy mô của nó, tôi còn thắc mắc là tại sao các công ty tại Trung Quốc lại chuyển sang hoạt động tại Việt Nam. Chắc không phải vì nhân công rẻ vì tôi được biết là có nhiều vùng ở Trung Hoa, mức lương lao động của người dân còn thấp hơn lương công nhân Việt Nam.

Vì bận kỳ kèo thương lượng hợp đồng cho thân chủ, tôi không tiện chất vấn mấy ông trong ban quản trị của công ty này. Vả lại cuộc nói chuyện làm ăn căng thẳng đến khôi hài. Mặc dầu có sự chuẩn bị trước, nhưng vấn đề đàm thoại vẫn thật rườm rà. Mấy người trong ban quản trị chỉ nói được tiếng Quảng Đông và lúc nào cũng có cô thông dịch tiếng Việt tóc dài đi kèm bên cạnh. Thêm vào đó là có hai người từ Đài Loan đi với chúng tôi để đến cung cấp máy móc cho công ty này, hai người ấy lại chỉ nói tiếng Phổ Thông kèm theo chút tiếng Anh. Còn thân chủ tôi thì chỉ nói được tiếng Anh. Thế là thân chủ tôi phải nói qua tôi, tôi chuyển lời lại bằng tiếng Việt cho cô bé tóc dài kia, cô ấy thông dịch sang tiếng Quảng Đông cho mấy ông quản lý công ty. Những phần liên quan đến máy móc, tôi dịch lại tiếng Anh cho hai người Đài Loan. Và ngược lại. Dòng nói chuyện cứ đi vòng, xéo, ngang, dọc đến hết ngày, vì thế chuyện đơn giản cũng trở nên thật phức tạp.

Đấu trí cả ngày nên đêm hôm ấy tôi mệt lạ lùng, tôi khước từ lời mời đi ăn chung với mấy ông thân chủ và gọi một người bạn cũ để đi ăn một bữa cơm thật bình dân. Tôi đề nghị cô ta là hai đứa nên đến tiệm bánh mì Như Lan trên đường Hàm Nghi ăn vặt. Vừa đậu xe xuống trước cửa tiệm là tôi đã thấy không vui vì bị mấy đứa trẻ ăn xin “tấn công”.

“Các em có ăn bánh bao không thì cô mua, chứ tiền thì cô không cho.” Tôi trả lời sự van nài của mấy đứa bé đầy nước mũi khô rằn rì trên mặt và quay mắt tránh cái nhìn cầu khẩn của chúng. Mấy bé chíu chit thương lượng với nhau điều gì đó rồi quay lại bảo tôi:

"Cô mua cho mỗi đứa một cái nhen.” Tôi gật đầu và nói cô hàng bánh gói năm cái bánh bao nóng khói bay nghi nghút. Nhưng tôi vừa quay lại thì đã thấy mười em đứng chìa tay ra. Biết rằng mình đã bị mắc bẫy, nhưng tôi cũng vui vẻ chấp nhận cái bẫy này. Tôi mua hết tất cả mười hai cái bánh bao rồi sau đó tuyên bố là sẽ không mua nữa và sẽ phải vào tiệm để ăn cơm. Cô bạn tôi lắc đầu:

“Chán đi với bồ quá. Cái mặt của bồ đi đến đâu là tui rầu đến đó. Không bị ăn xin bao vây thì cũng bị người ta “cắt cổ”.” (Ý cô ta nói là mặt tôi nhìn rõ là người nước ngoài, đi mua bán thì cứ phải trả giá gấp ba người trong nước. Tôi nghĩ chuyện đó cũng công bằng thôi.) Khi chúng tôi bước vào tiệm ăn thì các em ăn xin không dám vào theo. Đây có lẽ là luật bất thành văn. Tôi ngồi trong tiệm ăn nhìn ra quan sát các em đang ngấu nghiến ăn bánh bao mà thấy mất cảm hứng ăn tối. Trong đám đó có hai em da thật đen ngồi cách biệt mấy em kia. Tôi sực nhớ trong lúc nghe mấy em van xin, hai em này nói nhỏ hơn và giọng tiếng Việt có vẻ lờ lợ. “Thôi chết rồi, có phải mấy em này là người Cam Bốt bị bắt qua đây để đi ăn xin chuyên nghiệp?” Tôi buồn muốn nghẹt thở và vội vàng xua đuổi ý nghĩ đó đi. Tôi trách mình là đã đọc quá nhiều bài thống kê TIP (Trafficking In-Person Report)
của chính phủ Mỹ nên đầu óc bị ảnh hưởng.

Nếu các em từ Cam Bốt qua thì chắc là ăn xin ở những thành phố cận biên giới như An Giang, Rạch Giá chứ không vào đến đây đâu. Một lần nữa tôi lại tự nhủ lòng. Để dễ thở hơn, tôi đề nghị cô bạn tôi đi qua tiệm khác. Tôi đứng lên rất nhanh trong sự ngơ ngác của bạn tôi. Cô lắc đầu: “Bây giờ nàng lại muốn chạy trốn đi đâu?”

“Mình đi qua Bà Cả Đọi đi. Tớ bỗng nhiên thèm món ốc xào chuối với tía tô và canh rau đay nấu ghẹ quá đi.” Bình dân đến thế là cùng.

Trên đường đi tôi tự trách mình là sao lúc nãy không hỏi xuất xứ của hai đứa bé kia. Rõ là mình vẫn nhát như cáy, không dám đương đầu với sự thật.

Sang ngày hôm sau, tôi theo thân chủ tôi cùng một số người nữa đi qua Nam Dương để tham quan một công ty chuyên sàn xuất loại thùng giấy rất đặc biệt. Tôi hí hửng nghĩ rằng đường khuynh diệp có thể sẽ đến với tôi trong những ngày ở quần đảo này. Ngoài sự ăn hối lộ trắng trợn tại phi trường, thủ đô Jakarta (dạo trước gọi là Djakarta) đón chào tôi với những hàng cây xanh thắm nhìn no con mắt. Nhưng sống ở thành phố cây xanh này cũng có lắm điều không thoải mái, mà điều khó chịu nhất là sự khám xét rất chặt chẽ khi mình đi vào các nơi công cộng.

Mỗi khi bước vào khách sạn hoặc những tiệm ăn lớn, tôi đều phải đi qua máy rà vũ khí, túi cầm tay tôi thì bị lục soát, tương tự như lúc tôi bị khám xét ở phi trường trước khi lên máy bay. Gầm và cốp xe hơi cũng bị rà xem có giấu vũ khí hoặc bom nổ. Nếu mà cuộc sống ở nước Mỹ ngày mai cũng trở thành như thế này thì thật là đáng buồn. Tội nghiệp cho Jakarta, một thành phố tươi mát ngợp bóng cây nhưng lại phải nằm thoi thóp trong sự sợ hãi.

Đêm hôm đó, chúng tôi được chủ xưởng máy nổi tiếng kia mời đi ăn cơm Nhật. Một bữa ăn gần bốn tiếng đồng hồ, kéo dài từ 8 giờ tối đến gần 12 giờ khuya. Trong đời tôi có lẽ sẽ không bao giờ quên được buổi ăn sách vở này. Sau khi được xét duyệt kỹ càng, người tiếp tân dẫn chúng tôi vào một phòng riêng. Vừa ngồi xuống, một người đàn ông trung niên xuất hiện từ sau một bức màn lửng. Ông ta gập người chào rồi tự giới thiệu là một đầu bếp người Nhật nổi tiếng trong vùng, hôm đó được vinh dự phục vụ chúng tôi. Ông đến từng người để bắt tay và trao danh thiếp một cách rất trịnh trọng.

Chỉ cần nghi thức rửa tay bằng nước nóng thơm mùi hoa lài rồi uống rượu khai vị trước khi ăn cũng đã kéo dài hơn bốn mươi phút. Thế rồi món đầu tiên xuất hiện. Mỗi người một chiếc ly, cao như ly uống trà làm bằng đá có nắp đậy. Tôi thận trọng mở nắp ly. Một làn khói nhẹ bay lên thơm mùi trứng. Người đầu bếp lại xuất hiện giải thích đây là canh trứng hấp. Tôi lấy muỗng sắn nhẹ từng miếng mỏng, cảm tưởng như ăn chè đậu hũ hay bánh flan. Qua món thứ hai, chúng tôi mỗi người được dọn cho một chiếc thớt gỗ có chân trên đó có hoa rau trưng bày một cách mỹ miều gây chú ý cho một điểm tròn ở góc thớt: điểm tròn đó là cá thu tươi (sashimi). Tôi không thể nào diễn tả bằng lời hương vị của những miếng cá sống này. Ngọt, mềm, tan trong miệng. Quá lạ và quá ngon. Vị giác ăn cá sống này tôi chưa hề được cảm nhận. Nếu đây mới thật là cá tươi, thì từ trước đến giờ tôi ăn cái gì? Món thứ ba, rồi đến món thứ tư, tất cả đều rất cầu kỳ thịnh soạn và mỗi khi món ăn dọn ra, người đầu bếp lại trân trọng mời và giải thích nguồn gốc cho chúng tôi nghe. Khi món thứ năm được dọn ra, ông chủ xưởng máy Nam Dương lên giọng:

“Tôi chắc hẳn quý vị chưa hề ăn món này. Đố quý vị nó là món gì?” Ông chủ xưởng là một người cao lớn vạm vỡ nhìn có uy lực, nói chuyện như một vị tướng ra lệnh cho mọi người. Trong sự lễ phép của ông có lẫn lộn một chút kiêu ngạo khác thường. Mỗi lần cụng ly, ông đều tuyên bố: “Không nơi nào tốt bằng Nam Dương.” Ông cho rằng Nam Dương thật hùng tráng và đang có đường hướng đi lên, và công ty ông là biểu hiển của sự thành công của Nam Dương. Tôi mỉm cười kín đáo. Rồi chăm chăm nhìn cái khay sứ trước mặt với những miếng gì đó thon dài như râu bạch tuộc nằm châu mình vào rong biển cuộn thành những vòng xoáy, trông rất cầu kỳ nhưng lại mộc mạc. Không ai đoán được nó là món gì. Tôi khẽ gắp một miếng bỏ vào miệng. Giòn như sụn, dai dẻo như cháy cơm nếp , ngọt bùi như khô mực, rất lạ vị và cũng rất quen thuộc. Trong mỗi miếng có bao nhiêu cảm giác khác nhau. Mọi người ai cũng đoán già đoán non, nhưng cuối cùng phải đầu hàng. Ông chủ xưởng nhìn mọi người một hồi rồi cất lên từng tiếng từng tiếng một:

“Kính thưa quý khách, quý ông bà vừa thưởng thức đuôi của một con cá đuối già tuổi đời. Quý khách đã được gia tăng tuổi thọ rồi đó. Cá đuối này đã hy sinh để đem lại sự trường tồn cho việc hợp tác lâu dài của các công ty chúng ta!”

Trong lúc mọi người trầm trồ cụng ly, tôi thấy hiện ra một hình ảnh kinh hoàng của thuở xa xưa nay chợt trở về trong trí nhớ. Đó là hình ảnh đứa bé hàng xóm đứng hứng những lằn roi đuôi cá đuối quất lên tấm lưng để trần nhỏ bé đang rướm máu. Lúc đó tôi mới mười tuổi cũng bằng tuổi đứa bé kia. Tôi áp mặt vào tường để tránh phải nhìn cậu bé oằn oại trong cơn đau, khóc không thành tiếng. Ôm lấy tường, tôi cầu trời cho mưa to, thật to, để tôi không còn nghe tiếng roi cá đuối vun vút trên lưng cậu bé.

Trong khoảnh khắc đó, tôi biết ngay là hợp đồng trên 10 triệu Mỹ kim của thân chủ tôi đã không thi hành được. Khách sạn sang trọng mà chúng tôi được đài thọ cũng như buổi tiệc này và chai rượu Louis XIII vừa được gọi ra là để che lấp khả năng không sản xuất được hàng như đã từng hứa hẹn. Sau một tháng cố gắng, thân chủ tôi đã phải công nhận sự tiên đoán này của tôi là chính xác.

Đến món thứ 13 của đêm đó là tôi đã giơ khăn trắng lên đầu hàng. Tôi biết rõ là người chủ xưởng đãi chúng tôi buổi tiệc đó là để mua chuộc thân chủ của tôi, để thân chủ của tôi xiêu lòng gia hạn thêm thời gian cho họ thi hành hợp đồng. Đối với tôi, họ là cái thùng giấy rỗng tuếch. Thật là một bữa ăn tội lỗi, khi tôi liên tưởng đến các em bé lem luốc ngồi bên vệ đường ngấu nghiến những miếng bánh bao. Người đầu bếp khoe với chúng tôi trái “dưa mật”. Một trái dưa không khác gì dưa tôi thấy ngoài chợ, giá độ khoảng 5 Mỹ Kim. Vậy mà trái “dưa mật” này trị giá 350 Mỹ kim vì phải trồng trong mồ hôi kỳ ảo của các cô thiếu nữ còn trinh! Tôi lắc đầu không ăn. Phải chăng người ta thừa giấy vẽ voi?


Qua những diễn tiến phức tạp khi làm việc tại Nam Dương, tuy biết câu trả lời, tôi vẫn chất vấn các ông người Trung Hoa và Đài Loan là tại sao họ lại di chuyển công ty sang làm việc ở Việt Nam. Trên đường đi về Sài Gòn, mấy ông Trung Hoa giải thích cho tôi qua cô thông dịch viên:

“Cô không biết là làm việc bên Trung Hoa khó đến thế nào? Luật chống ô nhiễm môi trường đòi hỏi quá nhiều ở chúng tôi. Nếu làm theo chính sách nhà nước thì lại mất hợp đồng với khách hàng bên Mỹ. Cô cứ hỏi thân chủ cô thì rõ, họ kỳ kèo từng xu thành ra giá phải thật là cạnh tranh. Thêm vào đó, các bao hàng có quai nhập vào từ Trung Quốc bị chính phủ Mỹ đánh thuế rất cao (high tariff). Nhưng hàng đi từ Việt Nam qua thì không sao. Và chỉ có ở Việt Nam chúng tôi mới không phải lo về vấn đề phá hoại môi trường.” Thân chủ tôi nhìn tôi gật gù.

“Thế còn các anh ở Đài Loan thì sao? Lý do gì thúc đẩy các anh sang đất An Nam?” Anh người Đài Loan cười hả hê:

“Ở đâu có tiền, thì ở đó có chúng tôi.” Anh ôn tồn giải thích là vì Việt Nam bằng lòng mua máy của họ. Máy của họ rẻ hơn máy của Đức nhiều. Chỉ trong vòng mấy tháng họ đã nhập bao đầu máy qua Bình Dương với giá trị trên 25 triệu Mỹ Kim.

“Vậy máy của các anh khác với máy của Đức như thế nào?”

“Thật ra thì cũng không khác là mấy. Chúng tôi mua máy của Đức về, mướn nhân công rẻ cho tháo gỡ ra, thay đổi hình dạng, bỏ vào một số bộ phận rẻ tiền, đơn giản hóa máy đi. Biến nó trở thành máy của chúng tôi. Dĩ nhiên chúng tôi cũng nói với cả Đức lẫn khách hàng là cơ bản máy này là máy Đức.”

Nghe rất xuông tai nhưng tôi chắc hẳn chuyện không đơn giản như vậy.

Trên máy bay nhìn ra mây, tôi chợt quyết định phải kết thúc chuyến đi này bằng cách ghé qua Hàm Tân vài ngày. Tôi không thể trở lại Mỹ khi lòng vẫn chưa thanh thản. Tôi bỗng thấy thương cho số phận người dân nghèo Việt Nam. Những người
này đầu tư làm giàu trên cái mạng quá rẻ của người dân tôi.

Nghèo là một cái tội, mà nghèo từ lúc còn thơ thì cái tội còn nặng hơn, hình phạt cũng nặng hơn. Ôi những cơn đau đuôi cá đuối!


Jenny Do

Friday, June 6, 2008

Tôi là một xác suất

Tôi là một sự tình cờ

tình cờ sống

tình cờ gặp em

tình cờ làm việc

tình cờ rong chơi.

Tôi tình cờ như một phần mấy tỷ trong nhân loại

Tôi biết mình sống

Cogito ergo sum

Sum et cogito

Em bảo tôi hay suy nghĩ

Không,

em bảo: "Anh là thằng đực có trí tuệ".

Tôi là thằng đực

cũng là sự tình cờ

50, 50

tôi chẳng để ý

cho đến lúc em nhắc tôi.

Em nhắc đến trí tuệ

chắc em bảo tôi hay suy nghĩ

lúc làm tình

hoặc nói chuyện như Socrates

khi làm tình với em

cũng chỉ là sự tình cờ.

Đực không trí tuệ chỉ như khẩu súng

thiếu đạn

hoặc chỉ bắn lung tung

Có trí tuệ mà không đực thì chỉ là

nhiều đạn

biết nhắm giỏi

nhưng lại thiếu súng

Những nhà tu không có súng

nhưng rất nhiều đạn

100/100

Em đã từng đi ngang tôi, nhìn

mà không thấy

chỉ thấy thằng đực

hoặc trí tuệ

50, 50


Tôi

đang làm việc

tình cờ làm nghề tôi

từ lúc thấy trong nghề -

nghề tôi ngày hôm nay-

có đám vô tích sự

xác suất còn chưa rõ


Tôi tình cờ ngứa mắt


Tôi làm mọi chuyện đều tình cờ

bởi từ lâu tôi không còn suy tính

100/100

Tôi không mệt mỏi

chỉ lười

quá nhiều chuyện vô nghĩa.


Tôi làm thơ

Vũ trụ xoay tròn

ai bảo có Thượng Đế?

Lúc tôi chết vũ trụ không tồn tại

tôi chẳng còn đối thoại

thì tồn tại với ai?

Vũ trụ ngắn bởi thời gian ngắn

Thời gian ngắn bởi cuộc sống tôi ngắn

(Vũ trụ và thời gian chỉ có được 4 chiều)

Tôi chẳng nên lý luận dài dòng

chẳng nên phí thì giờ

còn phải rong chơi

Tôi chơi chữ nghĩa

không phải tôi học

hoặc có học nhưng không tin

vì không muốn có định kiến

tôi chơi với đám đông

gọi chung là loài người

tôi làm quen nhưng không làm thân

vì chẳng muốn hiềm khích

tôi chơi cái tôi làm ra

chẳng giữ gì lại cho mình

để khỏi ai dòm ngó

đỡ chiến tranh

90/100

(10/100 còn lại, đủ diệt vong nhân loại)

tôi sẽ mãi rong chơi

dù vũ trụ giới hạn


Đêm

Thế giới của ảo tưởng

Giấc ngủ không phải là hòa bình

không hiền hòa

im lặng trước bão tố

Ngày

không phải là tỉnh thức

máy mở lên

có thế thôi



Tôi làm thơ

mộng du


Kệ, vẫn rong chơi


Âm thanh, ánh sáng

những làn sóng, những làn sóng

Thơ tôi không có âm thanh ánh sáng

không phải những làn sóng

nên nghe rõ được, thấy rõ được

Nhìn mà không thấy

vểnh tai mà không nghe

tại không rong chơi

thiếu thơ


Tôi chưa hiểu rõ thuyết Quantum


những làn sóng không thể phẳng lặng

phải lên xuống nhấp nhô

như tôi lên xuống trên em

như em lên xuống trên tôi

mới tạo ra âm thanh

ánh sáng

âm thanh ánh sáng không thể phẳng lặng

phải lên xuống nhấp nhô

như tôi lên xuống trên em

như em lên xuống trên tôi

mới thành ngôn ngữ

ấn tượng

khi rong chơi tôi lên xuống nhấp nhô

nên tôi toàn năng toàn bích

lý thuyết Einstein do Vatican diễn dịch

khi ngưng rong chơi tôi thành tượng đá

di tích của lịch sử

Lịch sử

tuyệt đại tình cờ

chỉ để nuôi ảo tưởng

con người bất tử trong thời gian (tưởng là) bất tận

trong vũ trụ (tưởng là) vô cùng

nhưng thời gian không bất tận

vũ trụ đầy giới hạn

chỉ có bây giờ là mông mênh

bây giờ

100/100

Tôi phải dựa vào bây giờ

Tôi biết thế

không cần hiểu tại sao

ngày mai không cần nhớ


Trí nhớ

làm tôi không biết

vì cái biết thay đổi

mà trí nhớ thì không

tôi không muốn nhớ

nhớ là hết rong chơi

rong chơi làm gì

khi chốn chơi đọng lại trong vũng bùn trí nhớ?


Lãng quên

là cần thiết

khoa học không tiến bộ

nếu loài người không chịu quên


Nếu cứ nhớ người đóng đinh thập tự giá

đau khổ thì làm sao tiến bộ

nhìn người đau khổ để tìm giải thoát

Sao ta tàn ác thế?

Nếu cứ nhớ cuộc ly dị vĩ đại

một mẹ trăm con

mẹ ly dị cha, dẫn năm mươi con lên núi

tội cho em còn nghĩ chuyện chồng con?

Nếu cứ nhớ con người là tội lỗi

rửa trăm năm cũng chẳng sạch vết nhơ

sao còn cứ rửa?

Nếu cứ nhớ trên mai rùa là thế giới

ha ha

con rùa kia đứng ở đâu đây?


Phải quên em ạ.


Chỉ cần nhớ bây giờ


Bây giờ là tình yêu

Bây giờ là rong chơi

Bây giờ là cuộc sống

Bây giờ luôn thay đổi

100/100

Cuộc sống luôn thay đổi

Rong chơi luôn thay đổi

Tình yêu luôn thay đổi

Rất tình cờ

Thơ

Xác suất không tính được.

Đỗ Quý Dân

Thursday, June 5, 2008

A Journey - Một Chuyến Đi

An English translation of a poem I wrote during a trip to Vietnam. The original Vietnamese version follows.

A JOURNEY

I went on a long journey
Whence I came, where I went, I try but cannot remember
The storm of the past wakens today’s tidal wave
And sinks my boat in the river of self-destruction.

I visited the ruins, desolate and decayed
Darkness swallowed the sun and swallowed my own shadow
In the cracked mirror appeared a strange face
Its eyes staring like an open coffin
awaiting a dead corpse.

I knocked at the door of the reality house
Strange architecture - thatched roof atop a high-rise
I smelled the scent of aloes wood and incense
Blended with the stench of garbage
I heard anguishing sobs being hushed by voices bragging satisfaction
I saw figures that appeared familiar
Playing the roles of great men in this theatre of change
They spat out happiness and anger in their phlegm and saliva
Defined freedom by the lack of self-restraint
Happiness was a patchwork of millions of petty treacheries
When again would nobility survive poverty?
Passion was shaped in the mold of crudeness
Arrogance paraded to hide the lack of confidence
They greeted me: could they be old friends?
Who could ever guess the depth of this quagmire?

Where I went, blue turned into gray
Gray like your livid lips; your rosy youth had vanished into oblivion
Your pure black hair had tangled with the silver threads of a betraying moon
Ease was wanting on your twenty-year-old smile.
Who built the Emperor’s harem in this dark hamlet?
You grew like a rose in the thick of wild weeds
Flashing your thorns at crickets and grasshoppers
Lacking bees and butterflies, you entertained yourself with flies.
I tore my polluted lungs wailing out of love for you
And stayed up at night singing you a lullaby.

Where I went, the streets were crowded like an ant colony
Ants would form lines, humans would not care
Pushing was necessity, yielding suicide
Each person, a shaky vehicle
When two of them shared the same destination
Running the risk of a collision, they'd rather change their course
Than to yield and allow the other to be the first to reach the goal
The itinerary of the future could not be determined
On the river of my return, lost rafts floated aimlessly.

I met the sage who sat alone bracing his knees
The words of the old scriptures had evaporated into a fog
Novel tricks filled the new lexicons
Ambition was capitalized in the handbook of humanity
The mountains in the East blurred like a mirage
Home became more distant with each step I took on this pilgrimage
The sage told me: “You are confused because you do not blend in!
To find enlightenment, you have to cross the fathomless divide.”
"Where there is will, there is hope"
Such illusion, how long will I continue to nourish?

I have retailed my soul so that I could remain in this syndicate of robots
Swirling amid electrical circuits, I vaguely understand this virtual world
I am lost in this life and want to return to my previous existence to search for myself
But I will have to wait for my next life, as the old bridge may collapse
Under the weight of the luggage I now carry.


MỘT CHUYẾN ĐI
Tôi đi một chuyến du hành dài
Không nhớ nổi nơi đi chốn đến
Bão hôm qua làm dậy sóng hôm nay
Thuyền tôi đắm trong dòng sông tự hủy.
Tôi về thăm những tàn hoang phế tích
Bóng tối nuốt mặt trời, nuốt cả bóng của tôi
Trong gương nứt hiện hình khuôn mặt lạ
Đôi mắt mở tung như hòm đón thây người.

Tôi về gõ cửa căn nhà thực tại
Kiến trúc dị kỳ, cao ốc lợp mái tranh
Mùi nồng trầm hương pha mùi tanh rác rưởi
Giọng rêu rao thỏa mãn chẹn tiếng nấc buồn tênh
Nhiều bóng hình tôi tưởng chừng thân thuộc
Trên sân khấu đổi đời tập đóng kịch vĩ nhân
Những hỉ nộ nhổ ra theo đờm rãi
Định nghĩa tự do: thiếu tự kỷ bản thân
Hạnh phúc vá víu bằng trăm ngàn ti tiện
Còn đâu thời nghèo rách vẫn phong lưu?
Chất đam mê đem đổ khuôn trơ trẽn
Thiếu tự tin nên ôm dáng tự kiêu
Họ đón chào tôi: hình như tình cố cựu?
Hố lầy này, ai đoán được chiều sâu?

Nơi tôi về màu xanh pha màu xám
Xám ngoét môi em, tuổi hồng vội lãng quên
Tóc đen thuần rối sợi bạc của mùa trăng bội phản
Nụ cười hai mươi vắng hẳn bóng tự nhiên.
Ai dựng cung A Phòng trên xóm nghèo tăm tối?
Em như đóa hồng mọc giữa bụi cỏ hoang
Thản nhiên khoe gai cùng cào cào châu chấu
Thiếu bướm ong, mượn ruồi nhặng giải buồn!
Vì thương em, tôi gào rách buồng phổi nám đen ô nhiễm
Thức suốt đêm trường ru em ngủ giấc ngoan…

Nơi tôi về, phố người đông như kiến
Kiến biết xếp hàng, người bất kể trước sau
Chen lấn là nhu cầu, nhịn nhường là tự sát
Mỗi cá nhân, một xe máy chao đao
Hai chiếc xe, cùng chung một điểm đến
Tránh đụng nhau đành bỏ mất mục tiêu
Thà thế còn hơn nhường kẻ kia đến trước
Lộ trình tương lai từ đây không định được
Dòng sông tôi về, bè lạc nổi lêu bêu.

Tôi gặp triết nhân cô đơn ngồi ôm gối
Kinh điển năm xưa, văn tự bốc mù sa
Muôn mánh khóe lạ ghi đầy từ điển mới
Cẩm nang làm người, tham vọng viết chữ hoa.
Ngọn núi phương Đông nhập nhòe như ảo giác
Đường hành hương mỗi bước lại thêm xa
Triết nhân bảo tôi: "Ngươi hoang mang vì ngươi không hòa nhập!
Tìm giác ngộ, hố thẳm phải vượt qua."
"Có ý chí là vẫn còn hy vọng"
Ảo tưởng kia, tôi nuôi đến bao giờ?

Tôi đã bán lẻ linh hồn để nương thân từng ngày trong tập đoàn người máy
Quay cuồng theo dòng mạch điện, cõi vi tính tôi chỉ hiểu lơ mơ
Tôi đã lạc lối kiếp này nên muốn trở về tìm mình trong kiếp trước
Cầu xưa chừng muốn gãy, nặng hành trang tôi phải đợi đời sau…

Đỗ Quý Dân
© 2006 Dan Do – All Rights Reserved

Monday, June 2, 2008

Hợp cẩn

Khi vầng trăng lên đỉnh đầu, anh sẽ cùng em nâng chén

Chúc mừng đôi ta không lỗi hẹn

Anh đã hẹn trăng đêm nay từ thuở em chưa thành thiếu phụ

Trăng hẹn gió để thổi mát những buổi tối tình nhân

Gió hôm nay về nghịch tóc em

Và tình cờ gặp trăng như từng hẹn ước

Nên tình cờ mình đúng hẹn với nhau

Vào giờ hợp cẩn.


Em vẫn thường cất tiếng

Hát cho những mối tình lỡ hẹn

Em đã nghe

Trương Chi hát từ ngàn năm về trước

Em không là Mỵ Nương

Em yêu không đặt câu hỏi

Như hải bằng vỗ cánh vượt đại dương chẳng tự hỏi bao giờ đuối sức

Mây gió là tự nhiên, như giông bão, như những ngày quang đãng

Chim bay cao trên trời

Lòng biển quá xa vời

Em không hẹn, không bắt ai chờ đợi

Nhưng hôm nay, cánh chim đáp xuống bờ vai anh

Để anh ngạc nhiên vì không chờ đợi

Để anh mừng vui vì tình cờ đúng hẹn

Dù chưa bao giờ bảo nhau chỗ hẹn

Dù chưa bao giờ nhắc nhau giờ hẹn

Đêm nay:

Giờ hợp cẩn.


Anh biết mai em lại vỗ cánh

Có tiếng gọi em từ vô tận không gian

Không hò hẹn, không đợi chờ

Nhưng đầy những tình cờ

Mỗi lần là một đốm sáng lân tinh vĩnh cửu

Anh chợt hiểu ý nghĩa thời gian

Nên đêm nay

Giờ hợp cẩn

Anh sẽ nối với em sợi tóc

Như hứa hẹn mà không cần hò hẹn

Anh sẽ vẽ mắt em bằng môi

Để mắt em thấy tình yêu trong đêm tối

Anh sẽ nói với môi em bằng mắt

Để em thấy tiếng cười trong mắt loài chim

Ta sẽ kề ngực nhau trao nhau hơi thở

Để khi hấp hối anh sẽ hồi sinh bằng hơi thở của em

Thân thể quyện thân thể

Như dây leo quấn dây leo

Tình yêu pha vào rượu, thấm ra mồ hôi

Sáng long lanh như sao trời

Đêm hợp cẩn.


Hãy nâng chén cùng anh

Ngọn nến lung linh giờ hợp cẩn

Lập lòe như đốm lân tinh

Sẽ tắt đi nhưng vẫn là vĩnh cửu

Nụ hôn em trao

Sẽ nương bờ môi anh mãi mãi

Đêm nay đêm hợp cẩn

Sẽ dài mãi trăm năm.

Đỗ Quý Dân

© 2006 Dan Do – All Rights Reserved

Friday, May 30, 2008

Language and (the failure of) communication - Thơ Không Đề

Each linguistic expression is a photograph that purports to display the underlying thoughts and ideas. To communicate is to exchange such photographs. What and how do we communicate?


As a photograph can deceive, so can language. While the subject of the photograph resides outside of the photographer, our thoughts and ideas reside within us. Just like the photographer who manipulates the subject of his picture to obtain a product to his liking, we manipulate our thoughts and ideas before sharing them with others.


Thus language does not communicate our thoughts and ideas in their original, pure state. Rather, it provides a disguise or camouflage for our true selves. We conceal ourselves when we communicate through language. This habitual concealment gradually takes away our own identities. We again resort to language to deceive and convince ourselves and others that we represent certain values. We end up communicating to miscommunicate.


When a problem arises between people, we often blame it on a breakdown in communication. Will communication solve the problem? Just try to tell two bickering spouses to communicate. Each will try to use words to convince the other that his or her position is in the right, or to make excuses for conducts that he or she feels put him or her in the wrong. Language does not resolve problems.


So what is the use of language? We use language to negotiate. A negotiation is a communication that is not based on the negotiator’s own belief, and therefore does not require a disguise or concealment. It is an effort to objectify the falsity of thoughts and ideas that is perceived to be acceptable to others. Negotiating is the admission that language compromises the values of each and every human being. It is the admission that language destroys the essence of truth.


When the Zen master asked his disciple to listen to the sound of one hand clapping, he was referring to that realm of the mind that transcends language. The truth that is defined by language is a truth deceived. The way that can be traced is not the the real way. Only when one can forget language, one can truly communicate with others and with oneself.


Thus, the poet who claims to be the master of language will not be able to capture the essence of poetry. Only a poem with no language will carry the poet across the sound barrier of two hands clapping. Only then does his work becomes poetry.



KHÔNG ĐỀ

Khi không có ai, tôi nói chuyện với tôi

Bằng ngữ âm, hồn thơ hay nét vẽ

Bằng những âm giai vang vọng từ chiều sâu tâm khảm

Tôi nói chuyện với loài người,

Với cỏ cây và muông thú

Nói với cả Thượng Đế

Những điều tôi thích nói

Không ai nghe nên không cần nghĩa lý

Nhưng đủ sắc thanh để ghi dấu một hành trình

Của tôi hôm qua và hôm nay

Cũng có thể có bạn ở trong ấy.


Khi ngồi với em, tôi muốn nói

Những điều tôi nói với tôi

Những lúc ngồi một mình

Nhưng tôi lại ngồi với em

Nên tôi không nói được

“Ngôn ngữ hai người” làm tôi lúng túng

Tôi chỉ lập lại tiếng nhắc tuồng

Vang ra từ hậu trường

Vở kịch có mấy màn

Tôi đã diễn nhiều lần

Nhưng chẳng bao giờ thành thuộc.


Khi ở giữa đám đông, tôi thấy mình hùng biện

“Ngôn ngữ nhiều người” làm tôi nói đúng

Vì mọi người chẳng ai nói sai

(Vì không ai hiểu thế nào là đúng)

Nên tôi miễn cưỡng phải có lý

Để đảm bảo cho sống còn nhân loại.


Khi ngồi với tôi, em muốn nói

Những điều em tưởng tôi muốn nghe

Nhưng em chẳng biết tôi muốn gì

Nên không hiểu trọn điều mình nói

Em tuy gần tôi nhưng cách biệt

Xa nhau mới tưởng có tình thân

Tìm nhau mới biết mình đi lạc

Da thịt gần nhau mới chạm nỗi cô đơn

Tôi sẽ nghe mặc dù tôi không muốn

Em cứ nói mặc dù em không hiểu.


Đám đông quanh tôi cũng muốn nói

Ai ai cũng đúng chẳng ai sai

Chẳng ai sai nên cùng nhau tranh chấp

Không tranh nhau sao bằng được với nhau?

Thế giới chiến tranh chỉ vì muốn giống nhau !

(Kẻ thù tôi là người tôi hơn kém).


Tôi ơi, em ơi, đám đông ơi

Hãy cùng đổi thay để lúc gặp nhau không tránh mặt

Hãy tin mình có quyền tối thượng để khỏi phải tranh đua

Hãy đừng yêu nhau để khỏi sinh lòng thù hận

Hãy đừng nhắc hôm qua để khỏi suy tính ngày mai

Hãy tôn vinh thể xác để tránh đọa đầy trong ảo tưởng

Hãy nói với riêng mình để khỏi dối với nhau

Hãy tránh hiểu nhau để khỏi mất niềm tin

Vì khi hiểu là không còn tìm hiểu

Không còn Đám Đông, cũng hết cả Tôi, Em.

Đỗ Quý Dân

© 2006 Dan Do – All Rights Reserved

Wednesday, May 28, 2008

Đường Khuynh Diệp – Phần II


Từ cơn nóng hơn 30 độ C của Siem Reap, tôi bay vào vùng đất rét 7 độ C của Hà Nội. 26 Tết thủ đô những hàng hoa muôn màu sắc. Đỏ hồng vàng rực trời trong những cơn gió buốt xương. Hoa đào và cây cam quát (quất) ngập đường, đèn cờ rợp lối, điểm thêm sức sống cho bầu trời xám tái của miền Bắc. Xe cộ quá nhiều kẹt cứng trên đường trong những cơn mưa lạnh căm, đám đông chen chúc tranh nhau mua hàng ngoài phố, nhưng sự hỗn độn của cái xã hội thiếu trật tự kia không làm mất đi không khí của ngày đón Xuân. Hàng hóa từ Trung Quốc tràn về ngự trị đất Hà Nội, kể cả những vật trang trí cho ngày Tết Mậu Tí. Khách viếng thăm không thể phủ nhận được cái nhộn nhịp tưng bừng của một thành phố háo hức đón xuân, mặc dù thời tiết còn đang khắc nghiệt.

Tôi nhập bọn với các anh bạn họa sĩ của tôi để lên rừng hái hoa. Họ là thế. Lúc nào cũng phải khác người, không thích chạy theo đám đông. Tuy hoa đào đầy rẫy khắp chợ hoa, các anh lại muốn đi tìm hoa mận. Thời buổi này mọi người chạy xe Honda với những model mới nhất như SH300 gì gì đó, thì các anh họa sĩ của tôi lại chạy những chiếc Vespa cũ kỹ của thời 70. Mấy năm qua tôi vẫn thường về thăm và trao đổi nghệ thuật với họ. Tôi đã gia nhập những chuyến đi xa với những mục đích thật vu vơ chẳng hạn như lên miền cao Hà Giang tìm rượu ngô của Cô Thu Bột. Hoặc những cuộc hành trình sưu tầm gốm cổ nhà Mạc, hay đi kiếm xác chiếc xe Landrover mãi tận đảo Ngọc Vừng hoang dã cuối Vịnh Hạ Long. Thú vị nhất là chuyến đi về làng gốm cổ truyền Phù Lãng, nơi mà cả ngàn năm nay vẫn duy trì cách nấu gốm bằng củi, mặc dầu xung quanh làng không một bóng cây ngọn gió. Tôi nhớ mãi lời nói của một anh họa sĩ khi chúng tôi đứng ngắm nghía một số mẫu gốm tân thời trang trí tính cách lập thể (cubism): “đây là cái tát vào nghệ thuật!” Họ có những nhận xét rất khắt khe và cực đoan trong lãnh vực nghệ thuật, chẳng hạn như đến nay họ vẫn không chịu nghe dĩa nhạc CD mà chỉ nghe dĩa nhựa (vinyl records) hoặc băng nhựa (audio tapes). Một anh cho rằng những dĩa này có những lỗi do thời gian và bụi bặm tạo ra, nhưng do đó đã mang theo lịch sử và thời gian của nhạc. Có lẽ vì những sự cực đoan đó, tôi hết sức yêu mến họ.

Chúng tôi đánh xe lên Hòa Bình, đất đỏ, núi xanh rì cao sững như trong tranh cổ Trung Quốc. Xe chúng tôi đi sâu vào các miền đất của người Dao, cứ thế mà đi mãi đi mãi, hết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu lần dừng lại ngẩn ngơ ngắm sương mù rơi xuống các nhà tranh bên đường. Hoa mận vẫn biệt tăm. Thì ra năm nay hoa mận nở sớm và đã rụng hết khi cái rét tràn về. Chúng tôi tay trắng quay về Hà Nội, đến Lê Thạch Quán gần bờ Hồ Gươm, nơi tụ tập thường xuyên của giới văn nghệ, thì trời đã tối. Riêng tôi cảm thấy một cái gì đó thật hả hê và thỏa mãn, mặc dù không hái được một nhánh hoa mận nào, và mặc dù cây khuynh diệp vẫn vắng bóng. Có lẽ là do những mẩu chuyện vụn trên đường, nhất là những chuyện của trước ngày “đổi mới”.

Anh “Tâm Mải Chơi” chắc hẳn phải hắt hơi vì chúng tôi nói rất nhiều về anh hôm ấy. Anh là một họa sĩ mê chơi hơn mê tranh. Có lần anh dặn vợ ở nhà để anh đi ăn sáng với bạn, rút cuộc là 3 ngày sau anh mới quay về nhà. Còn khi vào Sài Gòn triển lãm, anh thuê 2 chiếc xích lô, một chiếc chở anh và chiếc kia chở tranh. Đi giữa đường gặp người quen vẫy vào quán uống cà phê, anh liền nhảy xuống xe và quên mất xe tranh. Ngày khai mạc cuộc triển lãm của anh, anh đến tay không và cười trừ với mọi người. Tệ hơn nữa là có lần anh Tâm bắt gặp một anh bạn của mình hớn hở dẫn cô tình nhân mới quen vào một căn nhà nhỏ trên lầu cao để tỏ tình. Chủ nhà này lúc ấy vắng nhà đi Tam Đảo. Anh Tâm Mải Chơi bèn lén lút khóa cửa nhốt họ lại. Chỉ định đùa nghịch đôi tình nhân kia một lúc cho vui nhưng rồi anh bỏ đi nhậu với bạn bè và quên béng mất mọi chuyện. Ba ngày sau anh mới nhớ ra và chạy đến mở cửa cho cặp tình nhân nọ thì hai người này đã bơ phờ rũ rượi. Chuyện kể lại là từ đó hai người tình nhân kia không bao giờ nhìn mặt nhau nữa.

Rồi lại đến chuyện lạc núi. Mấy anh họa sĩ thì thường đi lên miền cao để tìm “cảm hứng sáng tác”. Đêm về sương mù dày đặc các anh không sao tìm ra đường xuống núi. Cuối cùng các anh ghé vào một căn nhà bên đường để xin trọ qua đêm. Đó là căn nhà tranh của 2 bố con người thiểu số. Ông bố bằng lòng cho 3 anh họa sĩ ở trọ và quay dặn dò cô con gái bằng tiếng bản xứ, cô gái này người độ khoảng trong ngoài 18 tuổi có làn da trắng mịn. Cô nghe bố dặn rồi lui vào nhà trong. Các anh họa sĩ ngồi bên ngoài uống trà trên nền đất. Họ đợi mãi vẫn không thấy cô gái trở lại và cũng không được chỉ dẫn chỗ ngủ ở nơi nào. Cơn lạnh miền núi tràn ngập gian nhà nhỏ, cằm của các anh bắt đầu run lên thì cô gái kia lại đột ngột xuất hiện. Ông bố lúc đó mới quay lại nói với các anh bạn tôi rằng: “con tôi đã nằm sưởi ấm chăn giường cho các anh rồi đó, xin mời các anh vào nghỉ.” Đêm đó các anh bạn tôi ngủ rất ngon.

Và còn bao nhiêu câu chuyện thú vị khác nữa đã làm tôi lưu luyến họ. Chuyện họ kể không có gì thâm thúy lắm nhưng khi người kể có duyên thì chuyện gì cũng hấp dẫn.

Tôi luôn luôn tìm ra những nguồn sinh lực mới khi gặp lại những người bạn này, nhưng dù mến họ cách mấy tôi cũng không muốn nương lại Hà Nội ăn tết năm nay vì cái rét quá tàn khốc. Ở khách sạn, nước không đủ nóng để tắm và máy sưởi không đủ ấm nên tôi không sao chạy trốn được cái lạnh. Vì không khí mang nhiều hơi nước nên cơn lạnh dường như lúc nào cũng bám vào da và ngấm vào tận xương tủy. Các người dân miền núi phải bỏ nhà dắt trâu bò xuống núi để tránh tuyết, dẫu rằng họ phải ngủ ngoài đường chợ. Nếu trâu bò chết là họ mất hết gia sản. Có những người phải đem hết chăn mền của họ đắp cho súc vật để rồi bị lâm bệnh vì cơn lạnh. Có người chở con đi trên xe gắn máy ngồi đằng trước, khi xuống xe mới biết con đã chết cứng tự lúc nào.

Tôi đầu hàng cái lạnh nên phải chạy vào Dốc Lết gần Nha Trang tìm hơi nóng. May cho tôi vùng cát trắng biển xanh này quá thơ mộng nên tôi có chỗ dừng chân để thảo vội bài tường thuật này gửi về bạn đọc. Dốc Lết cũng thật hoang dã, nhưng sau vài bữa lang thang, cuối cùng tôi cũng tìm được bóng mát của cây khuynh diệp đợi mong. Tôi vò mãi lá khuynh diệp để tay thêm xanh nhưng không hiểu sao bàn tay tôi vẫn trắng và mùi hương chỉ thoang thoảng. Thế nghĩa là sao? Tay tôi đã khác xưa và mùi khuynh diệp đã thay đổi?

Tôi lần mò đến một ngôi chợ hải sản ven biển. Vừa ngồi xuống chiếc ghế bố thuê 5000 đồng, vài người bán hàng đã lại vây quanh tôi mời mua mực và tôm tích ăn tại chỗ. Tôi hiếu kỳ nên bằng lòng mua nửa kí tôm tích và nửa kí mực. Con tôm này chắc có họ hàng với con rết nên có rất nhiều chân. Chị bán hàng là một phụ nữ nhìn già dặn hơn tôi nhưng khi hỏi ra thì chị còn nhỏ tuổi hơn tôi nhiều. Tuy da chị bị nám nắng biển muối, chị không dấu được cái vẻ đẹp duyên dáng rất Việt Nam. Nghe lời chị, tôi ngồi ăn rất “dã chiến”, ăn trong gió cát không có khăn lau tay hay bát muối chanh mà tất cả chỉ nằm vẹn trong hai bao ny lông. Không sao. Tôi xin nửa chai rượu đế để phòng hờ không bị đau bụng và sẵn sàng chiến đấu với mực và tôm. Chị bán hàng nhất định không để tôi bóc tôm lấy. Tôi hỏi tại sao thì chị bảo rằng nếu bóc không quen thì thịt tôm sẽ nát vì tôm này mang nhiều trứng. Thế là chị ngồi dưới cát bóc từng con tôm cho tôi ăn. Và nhất định không ăn chung với tôi rồi cũng không chịu ngồi trên ghế sợ tôi tốn tiền. Trong gió cát mờ mắt, tôi thấy tôm thật đậm đà.

Tôi bắt chuyện vu vơ và hỏi về chồng con của chị. Nghe giọng chị hạnh phúc tôi phán một câu chung chung: “cuộc sống của các chị đây coi ra thì vất vả về thể xác một chút nhưng tinh thần thật thoải mái, không căng thẳng như chúng tôi bên đó.” Chị đỡ lời tôi ngay: “Căng thẳng lắm chị! Không đơn giản như chị tưởng. Chị có khi nào lo sợ chồng chị đi làm mà không bao giờ về nữa không?” Tôi lắc đầu.

“Chồng em đi đánh cá, mỗi đêm là em mỗi phập phồng. Khi bão lớn mà chồng em chưa về thì em cảm thấy mình già đi mấy tuổi. Đã mấy lần thuyền bị lật mà chồng em may sao vẫn chưa mất mạng.” Tôi nhìn ra những chiếc thuyền thúng tròn nhỏ đang lao chao trên biển trong nắng chói chang, rồi quay qua đỡ con tôm từ tay chị và ăn một cách rất thận trọng. Đây là do công sức của nhiều người tôi mới có được bữa ăn đó. Tuy mùi khuynh diệp nơi đây không nồng đủ, tôi rời Dốc Lết cảm thấy lòng mãn nguyện.

Đã đến ngày tôi phải bay ngược ra Huế để thăm các con tôi, 42 đứa trẻ của Hội Friends of Huế Foundation (www.friendsofhue.org). Huế thân thương vẫn đang còn say sưa trong hương vị Tết nhưng không may cơn lạnh miền Bắc đã xâm lấn đất Thần kinh. Tôi đến thăm Trung tâm trong khí trời lạnh giá. Tuy nhiên, đêm hôm đó chúng tôi cảm thấy thật ấm vì hơn 50 người vừa trẻ con vừa người lớn (tôi và các bảo mẫu) ngồi xung quanh căn phòng học nhỏ hàn huyên tâm sự. Ánh mắt các em sáng rỡ trong niềm vui, nụ cười nở ròn tan trong sự hân hoan. Có ai biết được quá khứ của mỗi em khó khăn sóng gió như thế nào. Nơi đây, các em đã có đại gia đình sống trong tình thương và sự bảo bọc của nhiều người, được như thế này một phần lớn là nhờ công đức của các nhà hảo tâm bên Mỹ.

Đêm tàn tôi đi quan sát nơi các em ngủ mới giật mình khi thấy các em co rúm trong một chiếc chăn mỏng. Tôi giận run lên và chất vấn các bảo mẫu là tại sao lại để đến tình trạng như thế. Một chị bảo mẫu rươm rướm nước mắt trả lời: “thưa cô, em cũng định thưa với cô để mua thêm chăn cho các cháu nhưng bận ri chăn mắc quá cô nờ. Và các thức ăn gạo nước còn mắc hơn. Hội đã mấy lần tăng chi phí cho mỗi em nhưng chúng em đòi hoài thì sợ Hội hiểu lầm. Món chi rứa cũng lên quá cao, cô nì.” Tôi cũng thấy chuyện này trong lúc ở ngoài Hà Nội nhưng không nghĩ nó ảnh hưởng Huế nhiều như vậy. Theo báo chí thì vật giá leo thang đến 14% nhưng lương bổng cho công nhân vẫn vậy. (Ngày tôi gửi bài này đến tòa soạn thì vật giá đã lên đến 17%.)

Tôi vẫn không chấp nhận để các em nằm trong cơn lạnh này, nhất là các phòng đều không có máy sưởi. Tôi yêu cầu các chị là bằng mọi giá ngày mai các em phải có thêm chăn. Tôi hỏi: “nhưng đắt là đắt bao nhiêu, thưa chị?”

“Phải chăn Trung Quốc thì mới ấm, mà một cái thì khoảng 170,000 ngàn chị Jenny à.”

“Tại sao chúng ta từ trước đến giờ không chuẩn bị chăn ấm này cho các cháu để giờ phải ra cảnh này?”

“Thưa chị, vì xưa nay có bao giờ lạnh như chừ đâu. Lần cuối là khoảng 40 năm trước.”

Đêm hôm ấy tôi mới nếm mùi. Khi về khách sạn, tôi bật máy sưởi lên 30 độ C và ngồi chùm chăn để chờ người được ấm lại. Ngồi mãi, càng ngồi càng lạnh. Tôi gọi tiếp tân cho người lên xem tại sao máy sưởi không ấm.

"Thưa chị, máy của khách sạn chúng em chỉ có một chiều thôi chị ạ.” Tôi mới hiểu ra là máy này chỉ là máy lạnh mà không có máy sưởi. Đã lạnh tôi còn bật thêm máy lạnh! Đêm ấy tôi mặc quần jeans, 2 đôi vớ và 5 cái áo để đi ngủ.

Ngày hôm sau, người bảo mẫu hớt hải vào phòng làm việc của tôi và báo cho tôi biết là giá chăn đã tăng lên 230,000 đồng một cái. Tôi đồng ý cho chị mua với giá này. Đến chiều chị lại lấp ló trước cửa phòng họp của chúng tôi. Tôi mời chị vào và chị rụt rè nói là không tìm đủ số lượng chăn ấm.

Chị cho biết thông tin ở ngoài chợ là chăn bắt đầu không còn để bán. Các cửa tiệm thông báo cho Hà Nội để chở thêm chăn vào. Ngay hôm đó, xe chuyển hàng đang đi giữa đường vào Huế thì bị điều trở lại Hà Nội vì nhu cầu ngoài Bắc cao hơn. Khách mua hàng từ Trung Quốc phải qua Việt Nam để mua lại chăn chính họ nhập qua, bây giờ mua lại giá một gấp hai. Cuối cùng chúng tôi chỉ mua được 20 cái chăn và các em phải ngủ chung giường để đủ ấm. Sáng hôm sau các em gặp tôi cám ơn rối rít. “Chăn ấm quá cô nì.”

Đương đầu với cái lạnh và bao nhiêu chuyện phức tạp của công việc Hội FHF, tôi cũng không nhớ đến chuyện đi tìm cây khuynh diệp.

Lo xong mọi chuyện cho Trung tâm, tôi lại cùng một số tình nguyện viên đi thăm các vùng lân cận nơi bị bão lụt của năm 2007 tàn phá. Biết bao nhiêu nơi cần sự giúp đỡ của hội FHF, hội không thể nào giúp cho xuể. Một nơi đã gây lại ấn tượng cho tôi là xã Quan Hòa. Nơi này là một trong các vùng thấp nhất của Tỉnh Thừa Thiên Huế. Đường vào xã chỉ như con đê hẹp rộng độ 2 mét ngang. Xung quanh là ruộng lúa nước xanh thắm. Nhưng khi lụt đến thì các xã ở khu vực này chìm trong biển nước mênh mông. Bao nhiêu xã hợp lại cũng không có được một ngôi nhà hai tầng để chạy khi nước lên. Trong thời gian bị lụt của năm 2007 vừa qua thì các xã này bị cách biệt hẳn với các xã lớn bên ngoài. Cả tuần lễ sau mới có thuyền vào để cứu người già và trẻ em. Người dân nơi đây van xin chúng tôi xây thêm tầng 2 cho ngôi trường làng để họ có nơi chạy lụt trong mùa nước dâng. Chúng tôi đến khảo sát ngôi trường mới cảm thấy thật xúc động. Ngôi trường chỉ là một căn nhà cũ lụp xụp 3 gian nền đất, nơi tập trung 76 trẻ em đi học hàng ngày. Hai người chủ nhà bên cạnh ngôi trường thấy chúng tôi đến liền chạy ra. Họ nói rằng nếu chúng tôi cần thêm đất để xây cầu thang cho trường thì họ xin dâng vì sự cần thiết quá cao. Họ mong cho con cháu trong làng có thêm chỗ học, đồng thời có tầng lầu cao để dùng làm nơi chạy lụt. Dân làng đã thu góp lại được 100 triệu đồng và mong hội chúng tôi giúp cho phần còn lại của cuộc xây cất. Tôi rất muốn nhận lời nhưng không dám vì vẫn cần phải thông qua Ban Chấp Hành FHF.

Khi xe chúng tôi chuẩn bị ra về thì có người chạy theo và hỏi xem chúng tôi có thể giúp gì được cho một gia đình có 2 người vừa bị chết. Tôi hỏi cặn kẽ hơn thì được biết rằng nạn nhân là một đôi vợ chồng trẻ làm nghề đánh cá tôm ở xã này. Để gia tăng thu nhập họ sử dụng bình điện xe hơi cho dây chạy vào trong nước để điện giật chết những con vật sống dưới nước quanh đó. Kết quả là bao nhiêu cá to tôm nhỏ rùa già lươn non trứng mỏng rắn rít gì ở vùng nước lân cận đều bị giết chết. Họ chỉ cần nhẹ nhàng lấy lưới vớt lên và đem bán. Lần này, không may vì bất cẩn, người chồng đã để hở tay và bị điện giật. Vợ thấy vậy chạy lại cứu chồng và cũng bị mất mạng theo. Sanh nghề tử nghiệp. Một anh tình nguyện viên nhún vai nói: “Chị thấy người mình có hai tếch không? Mình chẳng thèm câu từng con một, mình phải giết cả sông mới được.” Đây là phương cách “đánh cá” đang rất thịnh hành ở các nơi mặc dù có sự cấm đoán khắt khe của chính quyền. Hai vợ chồng xấu số này mất đi để lại 6 đứa con thơ. Mọi người đề nghị là chúng tôi nên nhận các em vào Trung tâm để nuôi. Tôi liền cho nhân viên FHF điều tra thêm vấn đề này. Nhưng điều làm tôi băn khoăn là người dân bất chấp hậu quả tìm kế sinh nhai bằng những phương thức nguy hiểm và bất hợp pháp để rồi phải trả những cái giá thật đắt. Vì miếng ăn, nhiều người đã không màng làm thiệt hại môi trường và nguy hại đến tính mạng. Lòng buồn buồn tôi tạm biệt xã Quan Hòa để đi lên xã Thụy Biều, vùng ngày xưa có giam nhiều tù binh, để thăm những gia đình nghèo mượn tiền vốn của Hội FHF để trồng rừng cao su. Những đồi cao su xanh mạnh mẽ nhưng mùi hương khuynh diệp lúc đó như đã bay rất xa tôi.

Rời Thụy Biều, chúng tôi đến một làng nhỏ ở xã Phú An. Làng này chỉ có 47 gia đình, tổng cộng dân số khoàng 350 người. Làng nhỏ, nhu cầu nhỏ, người dân sống mộc mạc và đơn giản. Họ không xin chúng tôi giúp đỡ gì cả. Nhưng trời đất xui khiến cho chúng tôi gặp một đám tang đang trên đường ra bãi tha ma. Đường đưa người quá cố về nơi yên nghỉ đòi hỏi người ta phải đi qua một chiếc cầu xi măng rất hẹp bắc ngang con kênh nông đầy bùn ngăn trở Phú An với bên ngoài. Rất tiếc là chiếc cầu cũ đã lòi sườn sắt lại quá hẹp không đủ chỗ cho hai hàng người khiêng quan tài đi qua. Muốn dùng thuyền cũng không được vì kênh cạn không đủ nước. Thế là người phải khiêng hòm xuống kênh, lội bùn nặng nề từng bước tiến, vất vả chông chênh mãi mới qua được bên kia bờ kênh. Từ bao năm nay người chết ở vùng này đã phải gian truân như thế mới đến được nơi an nghỉ. Chúng tôi trong hội FHF nhìn nhau và biết là mình phải làm gì. Tuy không tìm ra hương vị khuynh diệp tại đất Thần kinh, tôi đã quên hết đi căn bệnh của mình và cảm thấy ngày sao quá ngắn.

Trên đường về, tôi thấy bóng tôi như một trong những người khiêng quan tài. Xác nặng hai vai, chân nặng bùn, chậm rãi tiến về phía trước.