Cam on Jenny va anh Dan,
The idea of a blog during our time is much like Love in the Time of Cholera by Gabriel Garcia Marquez, where "tener un arranque de cólera," literally means to have an attack of cholera, but like French colera (cole`re, en colere) also could be construed as being angry at the social irresponsibility of the world.
It is a refreshing glass of water in a parched world thirst for love, where love is perennial as the grass, but anger and disappointment in love is a disease that afflicts us all (at least me!) We are lost in time of great troubles and so love will always hide in our otherwise noble social endeavors. i remember this great line from Dr. Zhivago: "Happy men don't volunteer"!
So what would we do in a time of uncertainty such as this? We hope for a deluge, a torrential rain as big as the story of Son Tinh-Thuy Tinh where we - like the lovers - are locked up (in an eternal embrace) forever on our mountain of love while the world is drowning around us. Earthquake in SiChuan won't do! The drying up of oil won't do! Rising prices of Rice and foodstuff won't do! Rising love and mountain do!
Put up a flag of cholera, let me forever float of my ship, my mountain of love!
Thanks again Jenny and Dan, you can add my cholera ranting on your blog, if you please/s'il vous plait!
Nguyễn Khoa Thái Anh
Thursday, May 15, 2008
Blog in the time of cholera
Wednesday, May 14, 2008
Cô đơn là nguồn cội
CÔ ĐƠN LÀ NGUỒN CỘI
Trong sự im lặng tột cùng của
Không
không không gian, không thời gian, không tâm linh, không thể chất,
không ánh sáng, không bóng tối
tụ năng lượng vô tận không chịu nổi
Cô đơn . . . . . . . . . . . . . . nổ tung
Cô đơn . . . . . . . . . . . . . . thành vũ trụ
để không gian . . . . . . . . có muôn vạn sao trời
. . . . . . . . . và có những hành tinh
nhiều như những hạt cát trong sa mạc
thời gian bắt đầu từ đó
Vũ trụ khởi sinh từ sự cô đơn của im lặng
trái đất khởi sinh từ sự cô đơn của vũ trụ
và loài người khởi sinh từ sự cô đơn của trái đất
Người sinh ra đời trong sự cô đơn của tiếng khóc
nỗi cô đơn người đã nhiễm
từ thuở người chưa tạo ra Thượng Đế
và trở thành cơn bệnh trầm luân
thuở Thượng Đế chết đi
không ai buồn đăng cáo phó
Tôi sợ cô đơn
nên tôi tìm ánh sáng
nhưng ánh sáng lại tạo nên bóng tôi
nhìn bóng tôi tôi thấy bóng cô đơn
nên tôi sợ bóng tôi
nên tôi tìm bóng tối
bóng tối che bóng tôi
rồi che cả thân tôi
chỉ còn sự cô đơn vời vợi
Tôi thấy lòng cô đơn
nên tôi tìm tình yêu
nhưng tình yêu đòi tôi phải riêng tôi
tình yêu phải riêng tình yêu
tình yêu đòi tôi phải cô đơn
để tình yêu tồn tại
vì cô đơn là nguồn cội của tình yêu
tôi tìm tôi trong ham muốn
tôi tìm tôi trong lý tưởng
tôi tìm tôi trong tham vọng
tôi tìm tôi trong tiến hóa
dưới bóng mặt trời
tôi lại đối diện với bóng tôi
và nỗi cô đơn vời vợi
nước đã trôi không muốn quay trở lại
vì trở lại là đã bốc thành hơi
tôi muốn trở về phải tìm lại tiếng khóc ban đầu
trong cõi cô đơn của hư không vời vợi
vũ trụ không muốn trở lại thời tĩnh lặng
không không gian mà cũng chẳng thời gian
vũ trụ sợ
sẽ nổ tung lần nữa.
Đỗ Quý Dân
Thơ ở đâu?
Thơ ở đâu?
Thơ đến từ cảm giác mới, từ kinh nghiệm mới. Mới đến từ thay đổi. Do đó, thơ đến từ thay đổi. Tối thiểu là trong cảm quan.
Tĩnh biến thành động là thay đổi rõ ràng nhất. Cái tĩnh nguyên thủy của muôn loài nằm trong khối năng lượng vô tận tích tụ trong một điểm cực vi. Cái động bắt đầu khi điểm cực vi kia nổ tung ra thành vũ trụ bao la bất tận.
Thơ bắt nguồn từ tiếng nổ đó .
Điểm năng lượng cực vi kia không thể ngủ yên trong tĩnh lặng. Vì tĩnh lặng đưa đến cô đơn. Cô đơn đòi thay đổi. Vũ trụ nổ tung vì thế. Cô đơn là nguồn cội của thay đổi. Cô đơn là nguồn cội của thơ.
Ý thơ chết yểu nếu chỉ xuất phát từ một sự thay đổi bình thường. Thơ còn sống đến hôm nay vì xuất phát từ những thay đổi khác thường. Những cái tầm thường không thể gọi là thơ.
Thơ sẽ chìm vào quên lãng nếu không tạo được tiếng ngân vang. Những làn sóng âm thanh của tiểng nổ khởi đầu vũ trụ vẫn còn vang vọng đến hôm nay. Những âm thanh khô cằn không thể vang vọng được. Thơ không bị quên lãng sẽ còn ngân vang qua bao thế hệ. Thơ khô cằn không vang được nên sẽ bị quên lãng.
Thơ sinh ra từ cô đơn, nuôi dưỡng bằng thay đồi, chỉ tồn tại khi vượt qua được cái tầm thường, bị quên lãng nếu thiếu giọng ngân vang.
Và hành trình của thơ là hành trình bất tận.
Thi Sĩ Say
The Original Little Saigon
The Little Saigon battle between San Jose City Council and the Vietnamese-American community received worldwide notoriety. From the NY Times to LA Times, it caught the attention of the mainstream. With the globalization of media and cultural values, my friends from Sydney to Dubai all wanted to know more as they followed the scintillating story on the Web.
So now we have a Vietnamese-American elected official being recalled by her own kin who got her elected in the first place. And the reasons are for lying to the community and practicing politics as usual. If the recall is successful, it would not be the proudest moment of the Vietnamese-American community in San Jose .
But then compare to other Vietnamese-American communities, I think it is tame and rather mundane. And not to highlight other communities, but I heard that Orange County politics is getting juicier as June election is near.
In a fractious community with Janet Nguyen winning the powerful supervisor seat with 4 votes over Tran and his cohorts (Known in OC term as “The Trannies”), we now have an all Viet battle for a district made up only of about 20% Vietnamese-American registered voters. This is the first time in the history of OC (the second largest county in California ) and probably in any major metropolitans where candidates are all Asian naturalized citizens.
Now being from San Jose , I tried to listen while not falling off my chair to these stories as I was munching dried squid and beer nuts with the in-crowd of the original Little Saigon.
A long time activist in Garden Grove opined: “We have lawyer who has never been a part of the community and never held any public office. He is running because his last name is Vietnamese and he can get free TV media from his law firm. They own a TV station you see. He is being sued for improper campaign financing. His naivite’ shows even more when he hired an infamous campaign manager who was not fondly remembered as a staffer of the Orange County Democratic Party. Well he is now living up to his reputation by hiring hard core gangsters to walk the precinct and do campaign work. Nothing is illegal of course as long as the probation officer approves it. Matter of fact, it might turn out to be an effective strategy to persuade voter’s decision as well as get out the votes.”
An older gentleman who is well known for his aggressive writing about the community under a catchy pen name chimed in: “The other candidate is by definition a “Trannie”. She is a newly elected Garden Grove city councilmember who declared no income on her Form 700 but managed to lend her self at total of $55,000 for her campaign elections. But what impressive is her ability to raise somewhere $100,000 in less than a month after announcing her campaign at the last minute to replace the other Trannie - Mr. Photoshop candidate. Another “Trannie” with shadowy background running for office trying to create more division in the community”
Not to be outdone, a middle age lady, the only woman in the group dryly mentioned: “Then there is the incumbent who is in a salary dispute with one of her campaign staffers. Money at the end of the day is not the issue but image is from what the pundits have gathered. And the campaign staffer may not have the image of the conservative OC republican but on the other hand in 2008, it is a morphing species.”
The weather was unusual cool in southern Cal in the past couple of days but the political gossiping wire is sizzling hot.
John Vu
Jenny's Venus
Boticelli’s Venus, the ancient Venus de Milo, and most other artistic depictions of the goddess of love are representations that emphasize the female beauty in the flesh, in accordance to the male gaze. For Jenny Do, the goddess of love deserves more than such one-dimensional treatment.
Jenny looks for a beauty that is omnipresent and enduring. Putting together elements borrowed from nature, Jenny was able to attain a composition that suggests the shape of a woman, and in this particular case, that of the Venus de Milo. Venus is as mysterious as the sea and as intimate as the earth, and she is at the same time powerful and nurturing. She is faceless, as her beauty transcends the describable.
Jenny often resorts to the “dynamic of the opposites” to compose her works. She explores static contrasts of basic elements as well as active conflicts of movements. She shares Piet Mondrian’s belief that relations of opposites as “primordial relations” in nature. But while Mondrian used geometric vertical and horizontal lines to demarcate the opposing elements, Jenny depicts her opposite elements in their natural forms, and looks for ways to contrast or combine them into a new form. Thus male/female, black/white, vertical/horizontal, large/small, and all other relations of opposites are meaningless unless and until such relations produce another form of existence.
In Venus’s case, Jenny merely combines two different natural elements, the sea and the earth, to produce her desired result. The mystery of the sea contrasts with the intimacy of the earth; the same can be said about water and soil. Jenny’s Venus is not the conventional portrayal of a voluptuous woman. Rather, she is the one who can understand and explain the primordial relation of the opposites, as she herself was born from such relation. DD
Venus by Jenny Do. Oil on Canvas
Courtesy of GreenRice Gallery
Tuesday, May 13, 2008
For Jenny
JENNY
a commentary on Nàng Thơ
LƯU NGUYỄN ĐẠT
JENNY, NÀNG THƠ & ĐỖ QUÝ DÂN: NHÂN CÁCH HOÁ NGUỒN THƠ
H |
iện tượng thi cảm với người làm thơ đã được nhắc tới nhiều, qua các thời đại và nền văn hoá khác nhau. Văn chương Tây Âu căn cứ vào thần thoại Hy lạp đã dùng Phi Mã, ngựa thần có cánh (pégase/pégasus) lướt sóng gió để tiêu biểu cho nguồn thi cảm như ám chỉ dòng nước tinh khiết mà thi nhân tìm tới để khởi trào sáng tạo. Ngược lại, thi sĩ Đỗ Quý Dân (ĐQD) đã dùng một mĩ tự, một mĩ nhân kế để kích thích thi cảm. Khi đặt tên “nàng thơ” là “Jenny”, thi sĩ Đỗ Quý Dân đã nhân cách hoá nguồn thơ trong sứ mạng tạo sáng tư tưởng thành thi ca, thành cảm xúc.
Đặt tên người là cả một trào lực tình tứ, gắn bó vào đối tượng những nhận định căn bản, những ao ước và kỳ vọng sâu xa. Ý nghĩa của tên có lúc huyền hoặc (Mỵ Sương, Huyền Chân, Huệ Chân), cao siêu (Hùng, Kiệt, Thiên Kỳ, Việt), có lúc thực tế, lý tài (Hiền, Nhàn, Năng, Lộc). Tại sao một nhà thơ Việt lại đặt tên Nàng Thơ mình là ”Jenny”? Phải chăng ông muốn ghi rõ dòng thơ ông xuất phát từ một nguồn mĩ lực, từ những thế cao siêu, đẹp đẽ nhất của dòng sáng tạo hải ngoại? Hay thi sĩ muốn “chơi chữ” trong thế đối âm, đối chiếu từ ngữ như kết thơ trong thể liên thảo,[1] trên căn bản đối thoại “phá cách bổ sung”.[2] Ta hãy tiếp tay với tác giả để tìm hiểu ý nghĩa của mĩ tự “Jenny”, và từ đó, bước vào thế giới thi ca của thi sĩ Đỗ Quý Dân.
Theo quan niệm sáng tạo cởi mở, chúng ta có thể căn cứ vào nhận định của Michel Foucault [3] để cho rằng khi sáng tác xong, tác giả chết đi (trong phép ẩn dụ) để độc giả được ra đời (cũng từ cái ẩn dụ trên). Roland Barthes cũng tuyên bố tương tự khi ông đề cập tới vấn đề này trong “La mort de l'auteur”. [4] Ý muốn nói tác giả không đích thân “hiện diện” trong tác phẩm nữa, nên độc giả toàn quyền tìm hiểu, nhận định và phán đoán tác phẩm trao gửi theo sở trường, kiến thức và trách nhiệm riêng tư của từng người. Nếu tác giả sáng tạo tác phẩm, thì độc giả “tái tạo tác phẩm đó”, như người mua áo đem về sửa lại cho vừa ý, theo đúng kích thước và nhu cầu của mình. Đôi khi từ cái áo đó, người tiêu thụ tái tạo một tấm áo mới lạ khác. Nhưng nếu tiếp tục suy luận như vậy, chúng ta có thể nói rằng “độc giả cũng sẽ mệnh một”, chết đi để một độc giả khác xuất hiện, mỗi lần đọc lại tác phẩm, với những nhận định và phán đoán mới mẻ hơn. Pháp ngữ có danh từ “lecture”, là đọc một tác phẩm; còn “relecture”, tức đọc lại, xét lại tác phẩm đó để tìm ra những khía cạnh khác biệt hoặc để bổ túc cách đọc lúc ban đầu. Tôi đã đọc bài thơ “Jenny” nhiều lần, và mỗi lần lại khám phá thêm nhiều điều mới mẻ về bài thơ đó, mỗi lần lại thấy một “Jenny” mới lạ.
Khác với “Pégase/Pégasus” là giống đực, thơ ĐQD ẩn tướng đàn bà, dưới âm hưởng “Jenny”, vốn là tên của nữ phái, của con gái. Đi sâu thêm một bước, tên này liên âm với “Gin(ger)”, gái gừng, gái rượu, đọc và viết ngắn gọn từ chữ “Virgin”, trinh nữ. Tác giả không những gọi nguồn cảm hứng đích danh là “nàng thơ”, mà còn khoác lên thân phận và sứ mạng Người Thơ một viễn vọng không kém hào hứng, thần thoại. Thật vậy, “Jenny” láy âm với “Genny”, “Ginny”, cố ý hay vô tình nhắc tới Genie và Jin/Jinn, vốn trong thần thoại văn hoá Hồi là những vị á thần á thánh (spirits, angels), những tiên nga đa diện, đa trạng, dẫn dắt con người vào tội lỗi, hoang lạc, đồng thời cũng đem lại ánh sáng cải thiện, hướng thưọng. Nàng Thơ của Đỗ Quý Dân có lẽ nghiêng vào cái thế nhị trùng, đa ứng, đa dạng đa năng như vậy.
Thoáng qua, người đọc cảm thấy có nhiều nghịch lý trong thơ Đỗ Quý Dân, nhưng nếu đọc lại, phối hợp lại những dị điểm thì lại nhận ra thuần lý ngay trong cùng dòng thơ. Lúc thì “Jenny” có chất “Jen” trong Hoa ngữ (phiên âm từ Zhun, Run) với cái nghĩa nhân từ, nhân ái; lúc thì có “dáng người”, dù bí ẩn như trong cụm từ “Nhân Sâm”, Genseng/Ginseng, khi “Nàng Thơ” phát hiện ban cho tác giả thần dược, dưới hình thức “cẩm nang làm thi sĩ”. Căn cứ vào chi tiết này, độc giả thấy đây là một nhà thơ có học, có khả năng ứng dụng phép tắc thi phú đàng hoàng, có bản lãnh mở túi gấm đời xưa để giải quyết các bí ẩn hiện tại. Nhưng tác giả lại thoải mái với dòng thơ tự do, dù đôi khi để lộ vài âm hưởng cước vận (rime caudale) lẫn yêu vận (rime intérieure), lồng nối ngay trong lòng câu thơ:
Và chỉ cho Anh nơi hò hẹn đôi ta
Ở chốn không là
Chốn ấy Anh đã qua.
Tác giả còn áp dụng Cựu Ước (Old Testament) để so sánh thi nhân và Nàng Thơ với thánh A-đông (Adam) và Nữ tổ Ê-và (Ève/Eva). Có điều lạ là thi sĩ Đỗ Quý Dân, với tư cách tác nhân (actant) lại muốn đổi mình thành Ê-và (bắt chước Eve), vốn là hiện thể của nội lực táo bạo, dụ dỗ A-đông (Adam) vào cảnh đày đoạ trần gian. Chính A-đông mới thực sự “cắn vào Trái cấm” (trái Táo), mong tìm hiểu siêu thực từ “Cây Kiến Thức” (Arbre du Savoir, Arbre de la Connaissance), cũng như tìm hiểu sự đời từ đam mê khám phá dục vọng (Carnal knowledge). Khác với Tôn Ngô Không khi hành hương, mới bỏ trái đào vào miệng, đã thấy tiêu tan hương vị, A-đông sau khi “cắn vào Trái cấm” đã không nuốt nổi vì Trái Táo bị mắc nghẹn ngay giữa cuống họng. Người Pháp gọi xưong gồ nơi cổ họng của người đàn ông (chỉ đàn ông mới có?) là “pomme d'Adam” (Trái Táo A-đông), vốn nhắc tới người đàn ông nguyên thủy ăn “Trái Cấm” mắc cổ họng, không xong sự việc. Có lẽ cũng để xác định, người trần tục (nhất là đàn ông?) chỉ có thể hiểu biết một phần lẽ sống siêu thoát, sâu sắc, tế nhị, huyền linh, huyền hoặc.
Trong hệ thống luật pháp Hoa kỳ, về hình sự tố tụng, bất cứ cuộc điều tra, tìm kiếm tài liệu hoặc chứng cớ một cách bất hợp pháp hoặc trái phép nào (như vào nhà nghi can lục soát không giấy phép Toà) sẽ bị coi là bất hợp pháp “tại gốc”, và sẽ bị Toà bác, không cho phép dẫn chứng, căn cứ vào học thuyết “Poisonous tree doctrine”. Nên những tài liệu hoặc chứng cớ thu lượm từ nguồn gốc trái phép trên được gọi là “trái cấm”, “trái độc” (Fruit of poisonous tree) sẽ không được dùng để chứng minh vụ kiện. Bất khả thực (không đúng, không ăn được). Không biết các luật gia Hoa kỳ khi đưa ra những án lệ trên có mang máng nhớ tới Cây Hiểu Biết / Cây Kiến Thức của Thánh A-đông và Nữ Thánh Ê-và hay không? Sử dụng luật pháp và quyền hành một cách bừa bãi dễ bị kẹt lắm.
Nhà thơ cũng vậy, thường bị kẹt, nên mất (cảm) hứng vào giờ phút chót, khi lâm cảnh hân hoan, tưng bừng nhất của sáng tạo lẫn sinh tạo. Chắc vì vậy mà thi sĩ họ Đỗ đã nhường cho Ê-và ăn trước, rồi mình ăn sau, cho xuôi câu chuyện (mong ăn hết món quà thi hứng). Nhưng nghịch lý hay quan niệm đối nghịch về “đàn ông/đàn bà” chỉ có tính cách tạm bợ, vì sự phân chia nam nữ tính rất “tình cờ” về mặt sinh lý (YYX); có khi còn lầm tính (thân nam, tâm nữ, hoặc ngược lại, thân nữ, tâm nam); hoặc lại bán tính (cơ thể không hoàn chỉnh về một giống tính rõ rệt, ở vào tình trạng lưỡng tính, hermaphrodisme); đôi khi còn lâm vào cảnh “thiến bỏ” (castration) vì nghề nghiệp (hoạn quan, ca sĩ cổ điển giọng kim/castrato), hoặc vì làm con tin, bắt cóc nô lệ Thời Hán Thuộc v.v.. Nhưng cả trong những trường hợp bình thường nhất, theo Gaston Bachelard,[5] nam nữ tính của bất cứ ai chỉ khác biệt độ vài phần trăm: người đàn ông bình thường chỉ có nổi 51% nam tính (khoẻ mạnh, cương quyết, động, hung dữ), 49% còn lại là nữ tính (yếu đuối, nhân từ, lo âu, tĩnh). Còn người đàn bà bình thường cũng chỉ có nổi 51% nữ tính (yếu đuối, nhân từ, lo âu, tĩnh), 49% còn lại là nam tính (bền bỉ, cương quyết, linh động, nóng nẩy). Vậy, quan niệm cho rằng chỉ Thánh A-đông ăn Trái Cấm, vì bị Ê-và dụ dỗ là một huyền thoại. Về mặt sinh lý và tâm lý chung, dù đó là người đàn bà nguyên thủy, Ê-và cũng có thể bị A-đông dụ dỗ và bị đẩy vào tình trạng “Ăn Trái Cấm”, đúng như thi sĩ họ Đỗ phát giác vài chục thế kỷ sau. Thơ đôi khi cũng là sự thật vậy. Một thứ sự thật hoàn nguyên, đối chiếu hư thực. Ê-và chắc lúc đó có râu và cổ họng Nàng sưng lên cục “pomme d'Ève” (Trái Táo Ê-và), nếu bị mắc nghẹn như Thánh A-đông. Không biết trong tình trạng “nửa vời” đó, nhà thơ họ Đỗ ngày nay còn muốn “bắt chước” Ê-và nữa hay không? Nếu còn ý đồ đó, Nhà Thơ cũng sẽ bị kẹt như “chàng ngớ ngẩn Adam” vậy.
Cái tài tình, khôn khéo “bắt chước” mà không bắt chước đó, tác giả đã thực hiện bằng cách lồng vào tác động tiêu thụ hân hoan mắc kẹt mà không mắc kẹt nhiều thành tố khác nhau trong vai vế nhân bản:
“Bước xuống sân khiêu vũ cùng em”.
Ở đây, chữ “cùng” biểu thị quan hệ vừa liên hợp (cùng=với), vừa ở trạng thái tuyệt đối hội nhập (tận/tột cùng, trong cùng). Tiếng Pháp có chữ “connaître” cũng hàm ý như vậy, khi tách và ghép lại thành “con-naître”: sinh-cùng. Muốn hiểu biết người, sự kiện, chỉ có cách độc nhất là phải sinh sống, sinh hoạt cùng và hội nhập tận/tột cùng môi sinh đó. Đó cũng là ý niệm kết sinh (symbiosis/ symbiose/co-existence) hội nhập trong đời sống, trong sáng tạo.
Nàng Thơ của Đỗ Quý Dân không phải là người yêu (aimée, beloved one), cũng không phải là nhân tình (amante, lover). Nàng Thơ đó còn đồng loã (chắp cánh) với thi sĩ trong cuộc hành trình tay đôi xa cách phòng the gia đạo, ra khỏi vòng đai lễ nghi “tình yêu vợ chồng”, nặng mùi “luận lý”, yêu sách lung tung. Nàng Thơ đó tận/tột cùng chỉ là “tình yêu” tuyệt đối, vô thường, vô hạn, mà nghi thức và lý lẽ phù phiếm không thể đạt tới.
Thơ Đỗ Quý Dân, [6] một mặt khai diễn bẳng những phủ định tâm thức, xoá bỏ kỳ vọng: “không tầm thường”, “không huyền thoại”, “không...hạnh phúc”, “không...sưởi ấm”, “không ...dừng chân”, “không... bình yên”, “không ...dinh dưỡng”, “không...hồi sinh”, “không ...tự do”, kể cả không “giác ngộ” v.v., mặt kia, lại ẩn dụ những thực trạng biên tế, nhỏ nhoi, căn bản: Nàng Thơ đó còn là giai nhân, yêu tinh, thần tiên, khoái lạc, tia chớp, thay đổi, trỗi dậy, tự hữu v.v. Trạng thái nghịch lý này tức khắc được giải thể để trở thành thuần lý khi ứng dụng ngay những bản thể bổ sung cần thiết, như âm với dương, như bóng tối với ánh sáng, như hư với thực. Lý do là Thơ Đỗ Quý Dân khuyếch xung phạm trù hiện hữu, đam mê và sự thật tới những giới hạn tuyệt đối trong không gian và thời gian, đến mức độ không tưởng, tự hủy để tự tạo:
Ở chốn không là
Chốn Anh đã đi qua
...
Trong vũ trụ vô cùng
Chỉ có Đổi Thay là Tuyệt Đối
...
... Em là tất cả
Với Đỗ Quý Dân, Thơ – Nàng Thơ và Tình Yêu, “tất cả” chỉ còn là “cùng” và “tận/tột cùng”, kết hợp thành những trạng thái thâm sâu tạo dựng hiện hữu, vừa phá cách, vừa tái tạo. Cũng trong cái “cùng” và “tận/tột cùng”, có tính cách dẫn giải công án (koan), một vị Thiền Sư đi hành hương đã tới nhà chùa nhổ vào tượng Phật, rồi khi bị dân chúng đánh đuổi, bèn cất tiếng: “Các người hay cho ta biết đâu không có Phật để ta nhổ bây giờ!”
Vậy, trong cái “cùng” và “tận/tột cùng” đó, một nhà thơ cỡ Đỗ Quý Dân khi bị độc giả yêu sách, quay vấn, đã nhiệt tâm trả lời: “Quý Bạn hãy cho tôi biết đâu không là Thơ, không là Tình Yêu, không là Sự Thật Tuyệt Đối để tôi từ bỏ “cẩm nang làm thi sĩ” trong cõi đời trần tục này?
Và đây là câu hỏi chót dành cho người viết bài tham luận, trước khi tạm biệt: “Quý vị hãy cho tôi biết đâu không là Dấu Hiệu, không là Chữ Nghĩa, không là Tư Tuởng Ngang Trái, Hư Thực để tôi từ bỏ cuộc Hành Trình với Trào lực Sáng Tạo?”
LƯU NGUYỄN ĐẠT
August 10, 2006
GHI CHÚ
[1] một cách ứng dụng quan niệm liên bản/liên thảo (métatexte / intertextualité) mà Julia Kristeva nói tới trong Semiotiké, Paris, Seuil, 1969.
[2]complementarity & deconstruction
[3] Foucault, Michel, “Qu’est-ce qu’un auteur?”, in Dits et écrits, Gallimard, 1994
[4] Barthes, Roland. “La mort de l’auteur”, in Le Bruissement de la langue, Seuil, 1984.
[5] Gaston Bachelard, La Poétique de l'espace. Paris: PUF, 1957.
[6] Đính kèm toàn thể bài thơ “Jenny (Nàng Thơ)” của tác giả Đỗ Quý Dân:
JENNY (NÀNG THƠ)
Anh đã vì em bỏ rơi người tình bé nhỏ
Những mối tình xưa
Giờ chỉ là những ngôi quán trọ
Anh đã vì em bỏ quên tình yêu chồng vợ,
Em mách cho Anh nghe
Tình yêu ấy giờ đây thành Luận Lý
Em cho Anh cẩm nang làm Thi Sĩ
Và chỉ cho Anh nơi hò hẹn đôi ta
Ở chốn không là
Chốn Anh đã đi qua.
Anh đã vì Em quên vực sâu trước mặt
Nhảy từ Hy Mã xuống lãng quên
Rồi căng buồm lên chiếc du thuyền
Để vượt biển cát vàng trên sa mạc
Địa đàng xưa, vì Em Anh từ bỏ
Chẳng chia tay chàng ngớ ngẩn Adam
Anh bắt chước Eve cắn vào Trái Cấm
Bước xuống sân đời khiêu vũ cùng Em
Anh rất hay đổi thay
Vì Em cần thay đổi
Trong vũ trụ vô cùng
Chỉ có Đổi Thay là Tuyệt Đối
(Nên Em phải thay đổi)
Nên Anh không thể yêu ai mãi mãi
Nên Anh chẳng muốn tin ai mãi mãi
Anh gọi tên Em
Từ chốn cực vi của từng nguyên tử
Là giai nhân – Em không tầm thường thế
Là yêu tinh – Em không là huyền thoại
Là thần tiên – Đừng đề cao Em mãi
Em không là hạnh phúc
Nhưng Em như Khoái Lạc
Bùng lên giữa cơn đau
Của tột cùng thân thể
Em không là bếp hồng sưởi ấm,
Mà là tia chớp nhoáng lên
Sáng hơn cả mặt trời
Em không là trạm dừng chân
Của người lữ thứ
Đang lạc bước trên con đường vô định
Em không là bình yên
Chẳng bao giờ Em cần ngơi nghỉ
Em không là dinh dưỡng
Vì Em luôn vắt kiệt sức Anh
Em không là hồi sinh
Nhưng từ Em Anh ngang nhiên trỗi dậy
Và giết chết đi những cái chết trong sự sống
Em không là Tự Do
Nhưng Em là Tự Hữu
Em ban Anh tự do
Nên anh trở thành Nô Lệ.
Em mỉm cười khi Anh gọi tên Em
Tên Em là Nàng Thơ
Em là Em, Em là Anh, Em là tất cả…
Em hẹn Anh nửa đêm trên đỉnh đồi Sáng Tạo
Anh nhìn thấy đồi nhưng chẳng thấy đường đi
Bỗng chợt thấy mình lạc trên hoang đảo
Em lại hiện ra chỉ lối Anh đi
Em đưa Anh vào những cuộc tình
Khi tim anh ngập ngừng đứng lại
Rồi xúi Anh phụ tình
Khi Em hóa thân làm tình nhân mới
Anh đã biết đời là bể khổ
Phải quay đầu mới thoát khỏi biển mê
Anh muốn thử bơi về miền Giác Ngộ
Nhưng sợ đi lại chẳng có đường về
Em nói Anh đừng ngại chi lầm lỡ
Tìm giác ngộ ta cùng vỗ cánh bay,
Anh thét vang trên đỉnh những tầng mây
Nhìn xuống chân, đời vẫn còn Bể Khổ.
Đỗ Quý Dân
Sunday, May 11, 2008
Vietnamese Mothers, American Mothers
Do you know that, as a Vietnamese, your mother is an old woman, and as an American, your mother is a fashion model?
Growing up as a Vietnamese kid, I learned through songs and poems that Vietnamese mothers were old, and had always been old, and that their sacrifices were boundless. Mẹ già như chuối ba hương. Old mother was as sweet as the scented banana. Mẹ già tưới nước trồng khoai, nuôi con đánh giặc đêm ngày. Old mother watered the yams she grew and raised her children to fight the enemy. She worked tirelessly, she would not go to bed until she had completed all her chores, and she would be so happy when her children could sleep well. Thương con thao thức bao đêm trường, con đà yên giấc, mẹ hiền vui sướng biết bao. She would raise her children until they became mature adults, capable of taking care of themselves. Thương con khuya sớm bao tháng ngày, lặn lội gieo neo, nuôi con đến ngày lớn khôn. Every single Vietnamese kid knew that Mom's love was as immense as the Pacific Ocean, and as endless as the water coming out of the ground spring. Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình. Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. And as her sacrifices were recognized, she grew in stature. She became the emblem of a people, she became Mother Vietnam. And the indelible legacy she left behind was a sad country, Vietnam. Yes, a sad country. Gia tài của Mẹ để lại cho con là nước Việt buồn.
I was astounded when I first watched that beautiful Hollywood movie titled "The Sound of Music." How could that young and beautiful Maria (portrayed by Julie Andrews), a woman full of energy, not drowned in sadness, her back not arched under the burden of an ancient culture, assume the role of a mother? I became completely confused when reading the Sunday newspaper's ads celebrating Mother' s Day. Buy your mother a beautiful dress, like the one worn by the fashion model in the picture, a watch, some nice jewelry, and even lingerie. Just visualize your mother wearing that dress, that watch, that piece of jewelry, and yes, that piece of lacy lingerie. Your mother would look like that fashion model in the picture. She is beautiful, attractive, and yes, young. It would be hard to identify her with that vague Vietnamese notion of sacrifice and endurance. She is not controlled by the fate of her country. She is in control of her own fate. Oh yes, she is American.
I often feel sad when thinking about my old mother who passed away a few years ago. She fit perfectly the image of a Vietnamese mother. May she rest in peace.
Today, walking through the mall, I noticed a beautiful woman walking side by side with her teenage daughter. She looked absolutely beautiful. A beautiful mother. Did I say that? How blasphemous could I be? I guess I can now think of a mother as a beautiful (and attractive) woman, as I have become a hyphenated American. Am I finally enlightened or have I become more confused?
Happy Mother's Day.
Drunken Poet
Owing and Owning
A friend sent me a Vietnamese song. Anh còn nợ em. You still owe me... I am waiting for her to collect the debt.
Owing is owning. If you don't owe, you don't own. When you own a house, you owe it more than simply your money. You owe it the expectation of "returning home." You owe it a commitment.
You are mine, my dear. That means I owe you a debt. Another commitment. I cannot have your relationship for free. I cannot be free having the relationship. I owe you. You owe me. From here to eternity.
Can we stop owing? I don't have the answer. Jesus owes humanity its sins. Buddha its sufferings. The dead owes the living grief and memories (and sometimes blames). Owing is as certain as tax and death.
But why are we afraid of owing? Sometimes you poke your own wound to increase the pain so that you can forget about your present (milder) pain. And you appreciate that increased suffering. The same with owing. Let's borrow more, and owe more. That's the only way to stop worrying about owing.
Làm sao tôi trả được nợ em
Giấc mộng tình yêu vẫn mãi tìm
Thịt da, hơi thở, nơi nương tựa
Trả suốt một đời vẫn thiếu em.
Làm sao tôi trả được nợ tôi
Mỏi chân tìm nẻo ý cuối trời
Giết bao mộng ước, bao mơ tưởng
Giết cả mình đi nợ chẳng vơi
Làm sao tôi trả được nợ đời
Thả mặc tôi rong một cõi chơi
Cờ đang dở cuộc bày bàn khác
Kiếp này để nợ đến kiếp mai.
Làm sao tôi trả nợ Nàng Thơ
Em kéo tôi ra khỏi vũng nhơ
Trăng sao, nắng gió, em phù thủy
Nợ hồi sinh, tôi trả mấy cho vừa?
How can I repay my debt to you
While still searching for that dream of love
Your flesh, your breath, your support,
I will still owe you beyond the end of my life.
How can I repay the debt to myself
While still searching for a purpose at the end of the heavens
I have killed so many dreams, so many hopes
I have even killed myself, but still could not get rid of my debts.
How can I repay the debt of life
Which lets me free playing my games
I keep starting new games before finishing the old ones
Assigning this life's debts to my next life.
How can I repay the debt to my Muse
You who pulled me out from the dirty pond
You are the sorceress of the moon, the stars, the sun, and the wind
You have resuscitated me: how can I repay that debt?
Desperately yours,
Drunken Poet
Saturday, May 10, 2008
Intellectually empty
Just watching the trailers of Hollywood's latest movies, you probably can tell what the story is about. They are so formulaic and predictable, yet i keep going back for more. After watching the film "Made of Honor", i was so disappointed in myself. "Why did i waste 1.5 hours of my life watching such nonsense?" Is the movie intellectually empty or is it me who have reached that point?
Thursday, May 8, 2008
NÀNG THƠ
Anh đã vì Em bỏ rơi người tình chung thủy
Những mối tình xưa
Giờ chỉ là những ngôi quán trọ
Anh đã vì Em bỏ quên tình yêu chồng vợ,
Em mách cho Anh nghe
Tình yêu ấy giờ đây thành Luận Lý
Em cho Anh cẩm nang làm Thi Sĩ
Và chỉ cho Anh nơi hò hẹn đôi ta
Ở chốn không là
Chốn Anh đã đi qua.
Anh đã vì Em quên vực sâu trước mặt
Nhảy từ Hy Mã xuống lãng quên
Rồi căng buồm lên chiếc du thuyền
Để vượt biển cát vàng trên sa mạc
Địa đàng xưa, vì Em Anh từ bỏ
Chẳng chia tay chàng ngớ ngẩn Adam
Anh bắt chước Eve cắn vào Trái Cấm
Bước xuống sân đời khiêu vũ cùng Em
Anh rất hay đổi thay
Vì Em cần thay đổi
Trong vũ trụ vô cùng
Chỉ có Đổi Thay là Tuyệt Đối
(Nên Em phải thay đổi)
Nên Anh không thể yêu ai mãi mãi
Nên Anh chẳng muốn tin ai mãi mãi
Anh gọi tên Em
Từ chốn cực vi của từng nguyên tử
Là giai nhân – Em không tầm thường thế
Là yêu tinh – Em không là huyền thoại
Là thần tiên – Đừng đề cao Em mãi
Em không là hạnh phúc
Nhưng Em như Khoái Lạc
Bùng lên giữa cơn đau
Của tột cùng thân thể
Em không là bếp hồng sưởi ấm,
Mà là tia chớp nhoáng lên
Sáng hơn cả mặt trời
Em không là trạm dừng chân
Của người lữ thứ
Đang lạc bước trên con đường vô định
Em không là bình yên
Chẳng bao giờ Em cần ngơi nghỉ
Em không là dinh dưỡng
Vì Em luôn vắt kiệt sức Anh
Em không là hồi sinh
Nhưng từ Em Anh ngang nhiên trỗi dậy
Và giết chết đi những cái chết trong sự sống
Em không là Tự Do
Nhưng Em là Tự Hữu
Em ban Anh tự do
Nên anh trở thành Nô Lệ.
Em mỉm cười khi Anh gọi tên Em
Tên Em là Nàng Thơ
Em là Em, Em là Anh, Em là tất cả…
Em hẹn Anh nửa đêm trên đỉnh đồi Sáng Tạo
Anh nhìn thấy đồi nhưng chẳng thấy đường đi
Bỗng chợt thấy mình lạc trên hoang đảo
Em lại hiện ra chỉ lối Anh đi
Em đưa Anh vào những cuộc tình
Khi tim anh ngập ngừng đứng lại
Rồi xúi Anh phụ tình
Khi Em hóa thân làm tình nhân mới
Anh vẫn biết đời là bể khổ
Phải quay đầu mới thoát khỏi biển mê
Anh muốn thử bơi về miền Giác Ngộ
Nhưng sợ đi lại chẳng có đường về
Em bảo Anh đừng ngại chi lầm lỡ
Tìm giác ngộ ta cùng vỗ cánh bay,
Anh thét vang trên đỉnh những tầng mây
Nhìn xuống chân, đời vẫn còn Bể Khổ.